Câu chuyện được gợi hứng từ “những thách đố của người chủng sinh” tại vùng truyền giáo Tây Bắc
Sáng sớm, sương bám thành giọt trên hàng rào nứa. Con đường đất đỏ lượn quanh sườn núi như sợi chỉ, hễ mưa xuống là nhão nhoét, nắng lên thì bụi đỏ bám thành từng lớp. Thầy Vinhsơn ôm chặt ba lô, lưng áo ướt đẫm dù trời chỉ lất phất. Cây đàn gỗ đeo chéo vai, gõ vào hông kêu “cốc cốc” theo nhịp bước. Từ bến xe thị trấn vào tới Pha Luông – giáo điểm nằm tận cùng thung lũng – mất chừng năm tiếng đi bộ, qua ba con suối, qua một dốc đá dựng đứng mà người dân nơi đây quen gọi là “dốc thở ngắn”.
Pha Luông có mấy chục nóc nhà lợp phên pơ mu, ruộng bậc thang quây quanh như bậc thềm trời. Nhà nguyện gỗ nhỏ xíu, mái đã dột vài chỗ. Cha xứ già ở dưới giáo xứ trung tâm, tháng lên đây dâng lễ một lần. Còn ngày thường, “đời sống đức tin… trông nhờ Thầy” - trưởng bản nói thế.
Thầy chào bà con bằng mấy câu tiếng Mông còn ngọng, bị bọn trẻ con cười ré: “Thầy nói sai rồi!”. Thầy cũng cười, bảo: “Sai thì… mai Thầy học lại”.
*****
Ngày đầu, Thầy được ăn bữa cơm với ngô đồ, mèn mén, bát canh rau dớn lửng lơ mùi khói bếp. Bàn tay bà con chai sần, ánh mắt sáng mà bối rối.
“Thầy ở đây một mình được không?” – chị Mỷ hỏi, tay vẫn đảo chảo ngô.
“Được. Mình đông người mà, ở một mình sao được”, Thầy đáp - khiến cả nhà cười rộ.
Trong đám người xúm quanh nhà nguyện có Lan – cô gái Mông tuổi chừng đôi mươi, tóc buộc gọn sau gáy, áo chàm sạch sẽ, cổ tay đeo vòng bạc mỏng. Lan nói tiếng Kinh khá, hay cười, mắt lúc nào cũng như có ánh lửa. Hóa ra Lan từng đi làm công nhân dưới xuôi mấy năm, rồi về bản trông mẹ ốm. Từ hôm Thầy lên, Lan tình nguyện giúp phiên dịch mỗi khi Thầy dạy giáo lý cho bọn nhỏ. “Con nít mê đàn lắm, Thầy đàn là chúng nó chịu ngồi im” - Lan bảo.
Nhịp sống ngày nào cũng đầy việc - sáng Thầy gánh nước, quét nhà nguyện, tập đọc chữ cho mấy chị em muốn học ký tên; trưa đi thăm người già, trẻ ốm; chiều tập hát, tối đến ngồi quây bếp lửa nghe bà con kể chuyện bản. Nước giếng lạnh buốt, gió núi lùa qua phên nhà, đêm co quắp trong chăn vẫn thấy lạnh nơi lồng ngực. Đêm khuya nơi vùng núi hoang sơ, tĩnh lặng, Thầy nằm nghe tiếng thú gọi nhau, vang vọng, chợt thấy mình nhỏ xíu giữa núi rừng, giống như một vệt sương mỏng, dễ tan biến.
*****
Một buổi chiều vàng, Thầy đặt cây đàn lên đùi, dạy lũ trẻ hát:
– “Đèn trong sương, soi lối đi về…”
– “Soi lối đi về…” – bọn trẻ đuổi theo, giọng vỡ bỗng, lạc nhịp nhưng rộn rã.
Lan đứng cửa, mắt không rời hình bóng Thầy, khẽ gật đầu theo nhịp. Kết thúc, cô bẽn lẽn tiến lại gần, thủ thì:
– Ở dưới kia… Thầy có ai thương chưa?
Thầy (lúng túng, giả vờ ho):
– Có chứ. Có… thương nhiều người lắm: bố mẹ, anh chị em, bạn bè, nói chung là tất cả mọi người.
Lan (bật cười, mắt tình tứ):
– Ý em khác cơ. Không phải thương kiểu đó.
– Khác thế nào?
– Khác là… như trai gái vẫn thương nhau ấy.
Câu hỏi rơi vào không gian yên quá. Khói bếp nhà bên cạnh bốc thẳng, vẽ một đường mảnh lên trời. Thầy nhìn đôi vòng bạc nơi cổ tay Lan, nghe tiếng tim mình khẽ đổi nhịp. Rồi Thầy nhìn lên trời, cái nhìn xa xăm, đánh trống lảng:
– Tối nay nhớ đưa mấy đứa nhỏ đến sớm. Mai trời mưa to đấy.
*****
Mưa thật. Cả một tuần mưa xối xả. Đường từ bản sang xóm bên bị lở, một mảng ruộng bậc thang bị nước ngoạm mất. Buổi tối, trưởng bản gõ mõ tập hợp người, xin Thầy cầu nguyện rồi phân công cứu hộ. Thầy xắn quần, buộc dây, lội suối kéo người. Có đêm về, chân Thầy trắng bệch vì lạnh, bóp không còn cảm giác.
Lan dúi vào tay Thầy chén nước gừng:
– Uống đi, kẻo mai ho, không hát được.
– Gừng này ở đâu ra?
– Của nhà em trồng đó, trên này lạnh dễ cảm, lúc nào cũng phải thủ sẵn.
– Sao em không để cho mẹ?
– Nhà em còn cả vườn, có tí đây thôi Thầy đừng ngại làm chi.
Đêm khuya, bếp tàn, chỉ còn than hồng ửng đỏ. Thầy nằm trên chõng tre, trằn trọc, nghe gió rít ngoài vách, nhớ câu hỏi của Lan mà lòng thấy bồi hồi: “Thầy vừa đẹp trai, lại hát hay đàn giỏi, chắc ở dưới xuôi các cô mê Thầy lắm nhỉ?” “Cô ấy hỏi thế, chắc lấy cớ để khen mình cách tế nhị” – Thầy thầm nghĩ và bất giác mỉm cười. Trước đây, thời còn đi học, đúng là cũng có vài cô cảm nắng Thầy thật, và tim Thầy cũng đã có lần rung lên giai điệu của mối tình học trò ngây thơ. Nhưng cái “thương” ấy mờ xa, đã đi qua. Còn cái “thương” đang ở đây thì gần một cách… nguy hiểm. Thầy trở mình, kéo chăn lên ngang mũi. Lạ thật! Người ta lên núi để luyện ơn gọi, sao Thầy cứ thấy lòng mình như đang đi trên sợi dây mềm.
*****
Sau đợt mưa, bản rộn ràng vụ gặt. Mùi lúa mới thơm cả thung lũng. Thầy xin đi gặt cùng, nhìn cái dáng vẻ thư sinh của Thầy, mọi người vô cùng ngạc nhiên:
– Thầy biết cầm liềm không?
– Không, nhưng Thầy biết… cầm sách.
– Vậy Thầy cầm sách ra gặt lúa nhé! – Lan giọng trêu trọc.
Mọi người cười vang, vì chưa nghe thấy ai cầm sách đi gặt bao giờ. Tuy trêu thế, nhưng Lan vẫn cài cho Thầy cái “bảo hiểm tay” – một miếng vải quấn để khỏi xước.
Cô đứng phía trước, đưa tay, hướng dẫn Thầy cách nghiêng lưỡi liềm, cách bó lúa, dựng rạ. Cái bó lúa to như thế, sức nam nhi như Thầy còn phải “lè lưỡi” ra mới có thể đội lên đầu, thế mà Lan coi như chuyện bỡn, bước chân di chuyển cứ thoăn thoắt. Nhìn cái dáng liêu xiêu của Thầy, Lan đùa: “Bó lúa nặng hay quyển sách nặng Thầy ơi! Em thấy lúc Thầy cầm quyển sách không đến nỗi phải nhăn nhó như bây giờ” Rồi Lan cười, nụ cười giữa cái vất vả, lam lũ, đẹp một cách lạ lùng. Nắng xiên, mồ hôi ướt lưng áo, bụi rơm bám lên tóc. Trưa ngồi nghỉ dưới gốc mận, Lan đưa cho Thầy cốc nước lá rừng mát lạnh và vài cái bánh dày. Thầy nói, nửa đùa nửa thật:
– Em mà đi dưới xuôi chắc mở được quán ăn.
– Dưới xuôi người ta đầy thứ ngon của lạ, thèm chi mấy thứ giản đơn này.
– Đâu phải cứ cao lương mỹ vị mới thấy ngon, nhiều khi những món dân dã lại ngon miệng.
Lan nhìn xa, vào dải ruộng cong cong ôm theo triền dốc, giọng ngượng ngùng:
– Chắc là khi ngồi với người mình thương, thì ăn gì cũng sẽ thấy ngon.
Đang nuốt dở miếng bánh, nghe thế Thầy suýt nghẹn, vội vàng giải thích: “Ý Thầy không phải thế! Lan cứ suy diễn linh tinh”, rồi lẳng lặng ăn hết miếng bánh còn trên tay.
*****
Hôm đó, thời tiết lạnh đột ngột, trời mùa đông trên bản tối sớm, mới 8h tối mà ngoài trời đã tối mịt. Lan chạy đến đập rầm rầm vào cánh cửa phòng Thầy, giọng rối bời, lo lắng:
– Thầy… Thầy mẹ em, mẹ em bệnh trở nặng rồi, đang lên cơn sốt, người cứ run cầm cập, Thầy có thuốc gì cho mẹ em không?
– Thầy có ít thuốc hạ sốt, nhưng mẹ Lan như thế, chắc thuốc hạ sốt không ăn thua đâu, phải đưa xuống trạm xá thôi.
– Đường tối, lại lạnh, sức mẹ em thế, sợ không đến nổi trạm xá – Lan nói.
– Thì cũng phải cố thôi. Ở nhà không được đâu.
Lan cắn môi. “Em sợ mẹ không chịu đi,” cô nói, rồi bỗng bật khóc, khóc như một đứa trẻ bị lạc. Thầy luống cuống, cúi nhặt cái khăn tay rơi dưới đất, đưa cho Lan. Khoảng cách rất gần, gần hơn mọi lần. Để tránh tình thế bối rối đó, Thầy giục:
- Chúng mình đưa bà cụ đi ra trạm xá luôn, sớm lúc nào tốt lúc đó.
Thầy và Lan dìu bà lên cáng, cuốn chăn thật kỹ để bà khỏi lạnh, rồi khiêng bà ra trạm xá cách đó những mấy kilomet đường rừng. Từng bước chân dò dẫm, theo ánh đèn pin mờ mờ treo trên trán, hai người cố hết sức rảo bước kẻo lỡ… Đường xá gập ghềnh, lởm chởm đá sỏi, đi một mình trong đêm đã đủ vất vả, đàng này còn cáng thêm bà cụ. Trời lạnh mà Thầy thấy mồ hôi túa ra ướt đẫm.
Ghì gẵng mãi đến hơn 10h tối mới xuống được tới trạm xá. Thầy mệt phờ, ngồi phịch xuống thở dốc, dáng vẻ bơ phờ. Cũng may bà cụ đến kịp, ở nhà thì chẳng biết xảy ra chuyện gì.
Nhìn dáng vẻ tội nghiệp của Thầy, Lan đôi mắt đỏ hoe, rưng rưng giọt lệ:
– Em… cảm ơn. Không có Thầy, em chẳng biết phải làm sao.
– Cảm ơn chi. Chuyện nên làm mà.
*****
Lần đó, Thầy sốt. Lan nấu một nồi lá xông, kê ghế ngồi canh. “Thầy ngủ đi,” cô nói, “em thức.” Thầy mơ màng, lẫn tiếng mưa với tiếng chân người. Trong cơn mê, Thầy thấy một con đường chia hai nhánh: một nhánh dẫn về phía thị trấn – nơi có ánh điện vàng ấm, có tiếng chuông nhà thờ xa lạ mà rành rẽ; một nhánh dẫn lên phía núi – nơi sương phủ dày, nơi có tiếng trẻ con gọi “Thầy ơi” kéo dài như sợi chỉ cột vào ngực.
Sáng hôm sau, Thầy tỉnh, mồ hôi đầm trán. Lan ở ngay bên, ngủ gục trên bàn, tay còn nắm cái muôi. Thầy rót nước, sơ ý làm tiếc cốc va vào nhau lạch cạch. Lan choàng tỉnh, hốt hoảng:
– Thầy sao rồi?
– Đỡ rồi.
– Em tưởng…
– Em tưởng Thầy chết á? Cảm bình thường, sao mà chết được. – Thầy trêu.
Lan không cười, mắt đỏ hoe: – Ừ. Em tưởng mất Thầy.
– Em sẽ… không mất gì đâu.
Lan nhìn thẳng, nói như dằn lòng: – Người ta không mất khi người ta chưa có.
(Câu ấy làm Thầy cứng họng.)
*****
Cuối đợt giúp xứ, Thầy nhận được thư của chủng viện. Nội dung là thư là gọi Thầy về, bề trên có chương trình tiếp theo cho Thầy. Cha xứ gửi kèm vài dòng viết tay: “Gác lại mọi chuyện để về nhé! Cha tin Thầy sẽ biết nỗi nhớ nào là nỗi nhớ đáng mang theo”. Thầy gấp thư lại, cất vào túi vải. Cầm chiếc túi, Thầy cảm thấy nó nặng hơn nhiều so với thường ngày.
Trưa hôm đó, Thầy ra bờ suối. Nước sau trận sạt bây giờ trong vắt, đá vàng lấp lánh. Lũ trẻ kéo nhau đi mò cua bắt ốc. “Thầy ơi, con bắt được con cua to!”, “Thầy chụp cho con tấm ảnh!” Thầy cười, bấm máy, tay run nhẹ. Lan đứng phía xa, tay áo xắn, đang rửa mấy bó rau. Cô không nhìn về phía Thầy. Chỉ đến khi bọn trẻ chạy ùa tới, lôi tay Thầy lại, Lan mới ngẩng lên, hỏi rất bình thản:
– Khi nào Thầy đi?
– Đầu tháng Tư.
– Nhanh nhỉ.
– Ừ…
– Thầy có… quay lại không?
Thầy nhìn dòng suối, những cánh bướm vàng lay động trên bờ cỏ:
– Anh trưởng bản bảo… “người đi rồi sẽ về”.
– Còn Thầy?
– Thầy… cũng không biết nữa.
*****
Ngày Thầy rời bản, trời trong hiếm có. Mây mỏng như sợi khói treo trên sườn đồi. Bà con đi tiễn đông. Trẻ con đeo sau lưng những chiếc gùi rỗng, miệng hò reo. Trưởng bản vỗ vai Thầy: “Đi mạnh khỏe. Nhớ ăn mèn mén, uống nước gừng khi lạnh.” Bà cụ Nủa dúi vào tay Thầy túi muối hồng: “Muối núi giữ người.” Thầy nhìn quanh, tìm một bóng người quen thuộc, nhưng Lan không có trong đám đông.
Đến con “dốc thở ngắn”, Thầy nghe tiếng guốc gỗ nện trên đất sau lưng. Lan chạy tới, tay cầm một bó thảo quả và sợi dây dệt bằng sợi lanh. Cô chìa ra:
– Em buộc sợi dây này vào ba lô cho Thầy. Ở đây, người ta buộc để… cầu bình an khi đi đường dài.
Thầy cúi xuống để Lan buộc. Tay cô run. Buộc xong, cô không rút tay lại ngay. Cả hai đứng cúi đầu, như cùng nhìn một nút thắt. Lan nói rất khẽ, giọng bịn rịn, nghẹn ngào:
– Mặc dù em rất muốn giữ Thầy ở lại, nhưng em biết là không nên và cũng không thể giữ. Em chỉ cầu Thầy hạnh phúc với con đường đã chọn.
– Cảm ơn em.
– Nếu một ngày… Thầy thấy mệt quá, Thầy cứ ngồi ở bậc đá trên dốc này. Em sẽ đem nước gừng tới.
– Dốc này dài lắm.
– Em đi quen rồi.
Họ cười. Một nụ cười rõ buồn. Thầy quay đi. Lan đứng lại, tay giữ lấy vạt áo, không vẫy. Thầy biết nếu Lan vẫy, Thầy sẽ lại đứng. Mà nếu đứng, có khi sẽ không đi nổi nữa.
*****
Thầy đi mấy đoạn, dừng lại ở khúc quanh nhìn xuống bản. Khói bếp chiều bảng lảng. Nhà nguyện nhỏ nằm giữa một vệt xanh của hàng mận. Thầy chạm tay vào túi vải thêu mà Lan tặng, nghe tiếng giấy cộm lên – lá thư mời. Trong phút chốc, Thầy muốn lấy nó ra, mở đọc lại, để lòng mình “chắc” thêm. Rồi Thầy không mở. Thầy rút cây đàn, gảy một dây. Tiếng đàn khô, bật ra một nốt như một hạt mưa rơi xuống mặt suối: nhỏ mà không mất tăm.
Dưới kia, có tiếng người gọi thất thanh. “Đồi bên Bó Lạt lại trượt!”. Mấy người chạy hối hả qua cây cầu tre, bụi tung lên mù. Thầy đứng giữa dốc, thân người hướng về phía con đường xuống thị trấn – nơi mà nếu đi kịp, Thầy sẽ bắt được xe khách chuyến chiều. Thầy nghe tiếng của chính mình, nhỏ lắm, nói như nói với một người bạn đang đi bên:
– Mình đi thôi. Trên đường dài, thương thế nào thì thương cho trọn.
Tiếng gọi “Thầy ơi!” - lại vang lên.
Thầy quay đầu về phía âm thanh ấy, rồi sải bước. “Dốc thở ngắn” dài hun hút. Ở lưng chừng dốc, có một phiến đá phẳng. Biết đâu chừng, chiều nay hoặc ngày mai, sẽ có một người ngồi trên đó, uống nước gừng, nhìn xuống bản, nghe tiếng chuông nhà thờ của một nơi khác vọng mơ hồ, và mỉm cười.
Còn bây giờ, chỉ có bước chân và gió. Và một con đường – chưa ai đặt tên – đang được mở ra dưới mỗi bước chân của Thầy.