Thách đố của thời đại với đức tin của người trẻ

Thứ ba - 04/11/2025 21:19  25
Trong một thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ với những bước tiến vượt bậc của khoa học kỹ thuật, niềm tin tôn giáo dường như đứng trước nhiều thử thách. Con người ngày nay không chỉ đặt câu hỏi về Thiên Chúa mà còn nghi ngờ chính ý nghĩa của đức tin. Giữa bối cảnh đó, vấn đề “hiện tại hóa đức tin” trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đức tin không chỉ là di sản tinh thần của quá khứ, mà còn phải là nguồn năng lượng sống động giúp con người định hướng, vượt qua khủng hoảng và sống nhân bản trong thời đại hôm nay.

1. Đức tin và những vấn nạn của con người thời đại

Với người có tôn giáo, tin là một chọn lựa tự do và có lý trí. Đức tin không đối lập với trí tuệ, mà đòi hỏi sự suy tư và phán đoán của con người. Người tin vẫn luôn tự hỏi: Có Thiên Chúa thật không? Nếu Ngài toàn năng, vì sao vẫn có sự dữ và đau khổ? Nếu Ngài hiện hữu, vì sao nhiều người lại vô thần? Những câu hỏi ấy vừa phản ánh khát vọng tìm kiếm chân lý, vừa cho thấy đức tin cần được đối thoại với lý trí. Đức Thánh Cha Benedict XVI từng nói: “mọi cách trình bày về Thiên Chúa chỉ là tiếng bập bẹ đáng thương
[1]. Thiên Chúa không phải là khái niệm trừu tượng trong sách vở, mà là Đấng hiện diện trong từng mảnh đời đau khổ, bất hạnh và nơi những nỗ lực yêu thương của con người.

Tuy nhiên, trong thời đại đề cao tri thức và tự do cá nhân, nhiều người cho rằng niềm tin không còn cần thiết. Từ đó, chủ nghĩa vô thần xuất hiện và lan rộng, trở thành một thách đố lớn cho đời sống đức tin hôm nay.

2. Nguyên nhân và bản chất của chủ nghĩa vô thần hiện đại

Công đồng Vatican II (Gaudium et Spes số 19) đã chỉ rõ, vô thần có nhiều nguyên nhân: từ nhận thức sai lầm, lối sống thực dụng, đến việc quá tôn sùng lý trí và khoa học. Có người cho rằng không thể biết gì về Thiên Chúa, có người chỉ tin vào điều có thể chứng minh bằng thực nghiệm và có người đề cao con người đến mức loại bỏ Thiên Chúa.
[2] Trong dòng lịch sử tư tưởng, nhiều triết gia đã góp phần nuôi dưỡng phong trào vô thần:

Trước hết là L. Feuerbach (1804-1872), triết gia người Đức, được coi là ông tổ của chủ nghĩa vô thần. Ông lý giải việc nhiều người tôn thờ Thiên Chúa chẳng qua vì tâm lý họ muốn tránh khỏi những bệnh hoạn, tật nguyền… Tôn giáo chỉ là một sản phẩm mà con người tạo ra, trong đó Thiên Chúa chính là công cụ, là phương tiện để con người đạt được mục đích
[3].

K. Marx (1818-1883) thì cho rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, “tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ…”. Ông còn khẳng định, tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ảnh hư ảo vào trong đầu óc con người.
[4] 

Với F. Nietzsche (1844-1900) chỉ vì Thiên Chúa mà con người mất tự do. Do đó, ông tuyên bố một cách dứt khoát “Thiên Chúa đã chết”. Không những thế, ông còn xem Kitô giáo là lời nguyền rủa lớn nhất, mà không có phương tiện nào đủ độc hại, lén lút, ngấm ngầm, ti tiện cho vừa. Thế nên ông gọi Kitô giáo là vết chàm bất tử duy nhất của loài người.
[5]

Còn theo J. P. Sartre: “Nếu Thượng Đế hiện hữu, thì con người chỉ là hư vô”[6]. Do đó, Thượng Đế không thể hiện hữu, Ngài không có quyền gì trên con người, chỉ có tự do của con người là tuyệt đối[7]. Vì không có Thiên Chúa, nên con người không có yếu tính do Thiên Chúa ấn định. Như vậy, chúng ta muốn là gì, là do chúng ta tự thiết kế theo lựa chọn tự do của mình[8]. Sartre còn khẳng định, Thiên Chúa không thể là Đấng tạo dựng nên con người, vì như thế con người chỉ là sản phẩm, như con dao rọc giấy, như một dụng cụ do Người sản xuất ra, dẫn tới hoàn toàn không có tự do?[9]

Những quan điểm trên xuất phát từ khát vọng muốn giải phóng con người, nhưng chính điều đó lại dẫn đến sự trống rỗng tinh thần. Con người tưởng rằng khi loại bỏ Thiên Chúa, mình sẽ hoàn toàn tự do, nhưng thực tế chính lúc đó họ lại đánh mất ý nghĩa và định hướng cuộc sống.

Nhân học Kitô giáo khẳng định: con người hướng về sự thiện và Thiên Chúa chính là nguồn thiện hảo tuyệt đối
[10]. Khi phủ nhận Ngài, con người mất đi nền tảng của luân lý và tự do đích thực. Đức Benedict XVI cảnh báo: “khi con người tuyên bố Thiên Chúa đã chết, họ tự cho mình là chủ của thế giới, nhưng cũng chính lúc đó họ đánh mất chính mình.”[11]
Kinh nghiệm của nhân loại trong thế kỷ XX cho thấy: dù khoa học phát triển, chiến tranh, bạo lực và sự trống vắng tinh thần vẫn ngự trị. Nhà văn Dostoevsky từng nói: “Giết chết Thượng Đế là giết chết con người[12].” Nếu không có Thiên Chúa, tự do của con người trở thành cuồng vọng, dẫn đến hủy diệt. Kant cũng khẳng định: đạo đức không thể đứng vững nếu không có Thiên Chúa là nền tảng công lý tối cao.[13]

Như vậy, Thiên Chúa vẫn hiện hữu trong chính khát vọng thiện hảo và tự do của con người. Ngay cả khi bị phủ nhận, sự hiện diện của Ngài vẫn là câu trả lời cho nỗi khắc khoải của nhân loại.

3. Giải pháp cho người trẻ trong việc sống đức tin hôm nay

Trước sự lan tỏa của chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa duy vật, giới trẻ – tương lai của Giáo hội – cần được định hướng để sống đức tin cách trưởng thành và hiện thực. Để làm được điều đó, cần đến sự cộng tác của gia đình, nhà trường và Giáo hội nhưng trên hết là từ chính bản thân người trẻ.

Thứ nhất người trẻ cần hiểu đúng về tự do. Tự do không phải là làm điều mình muốn, mà là chọn điều thiện. Khi con người dùng tự do để thỏa mãn bản năng, họ không còn tự do mà trở thành nô lệ của dục vọng. Sống đức tin chính là sống tự do đích thực - tự do để yêu thương.

Thứ hai, sống có lý tưởng và tinh thần dấn thân. Người trẻ không thể sống “bèo dạt, mây trôi” nhưng phải có mục tiêu và ý nghĩa. Hình ảnh các tu sĩ và bạn trẻ Việt Nam dấn thân giúp đỡ trong đại dịch COVID-19 là minh chứng cụ thể cho đức tin được hiện tại hóa qua hành động.

Thứ ba, nuôi dưỡng lòng trắc ẩn và nhân ái. Đức Thánh Cha Phanxicô trong Christus Vivit nhắn nhủ: “hãy học biết khóc cho người khác”
[14]. Nước mắt vì lòng thương xót là dấu chỉ của một trái tim còn biết cảm thông giữa xã hội vô cảm hôm nay.

Thứ bốn, dám là chính mình – sống như một bản gốc. Thánh Carlo Acutis từng nói: “Ai cũng được sinh ra như bản gốc, nhưng nhiều người lại chết như bản sao
[15]”. Người trẻ cần tỉnh táo trước cám dỗ của chủ nghĩa tiêu thụ và mạng xã hội. Đừng để mình bị định hình bởi đám đông, mà hãy sống theo căn tính riêng Thiên Chúa trao ban.

Thứ năm, sống trọn vẹn giây phút hiện tại. Nhà văn Stephen Leacock từng viết: con người luôn trì hoãn hạnh phúc cho “ngày mai”, để rồi cuối đời nhận ra tất cả đã vuột mất. Tuổi trẻ không phải là “thời gian chờ đợi”, mà là hiện tại của sứ mạng
[16]. Hãy dấn thân ngay hôm nay để biến đổi thế giới bằng những hành động nhỏ nhưng chân thành. Như lời Đức Thánh Cha Phanxicô khích lệ: Các bạn trẻ thân mến, tốt hơn hết, các con đừng đánh mất tuổi thanh xuân của mình, đừng ngắm nhìn cuộc sống từ ban công. Các con đừng lẫn lộn hạnh phúc với chiếc ghế bành và đừng sống cả cuộc đời mình trước cái màn hình (…) Đừng tiếp tục sống với tâm hồn đã tê dại và đừng nhìn thế giới như những khách du lịch (…) Hãy sống! Hãy dấn thân cho những gì tốt nhất trong cuộc sống! Hãy mở các cánh cửa lồng ra và bay đi! Làm ơn, đừng về hưu non các con nhé!”[17]

Tắt một lời, Chủ nghĩa vô thần, xét đến cùng, chỉ là hệ quả của một thế giới khát khao tự do nhưng đánh mất niềm tin và mục đích. Tuy nhiên, chính trong khát vọng ấy, con người vẫn hướng về Thiên Chúa – Đấng là nguồn sống, nguồn thiện và nền tảng của mọi giá trị nhân bản. Đức tin hôm nay không còn là chuyện của nhà thờ hay kinh nguyện riêng tư, mà phải được hiện tại hóa trong hành động, trong tình liên đới, trong lòng nhân ái và trong trách nhiệm với thế giới. Người trẻ được mời gọi trở nên những chứng nhân của hy vọng, dám sống đức tin giữa đời thường, dám yêu, dám dấn thân và dám khác biệt. Bởi lẽ, chỉ khi đức tin được sống trọn vẹn trong hiện tại, nó mới thật sự trở thành ánh sáng soi đường cho con người hôm nay và mai sau.

[1] x. Joseph Ratzinger, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam dịch, Nxb Tôn giáo, 2009, tr. 177.
[2] x. Công Đồng Vatican IIHiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Nxb Tôn giáo, 2009, số 19.
[3] x. Lm Giuse Dương Hữu Tình, Lịch sử triết học cận đại và hiện đại, ĐCV Thánh Giuse Hà Nội, lưu hành nội bộ, tr. 81-83.
[4] x. Trần Khang & Lê Cự LộcMác, Ăngghen, Lênin bàn về tôn giáo và Chủ nghĩa Vô thần, (Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2001), tr. 318-350.
[5] x. Friedrich NietzscheKẻ phản Kitô, Nxb Tri Thức, 2011, tr. 181.
[6]x. DOMÍNIQUE MORIN, Gọi tên Thượng Đế, Lm Phê-rô Đặng Xuân Thành-Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn (dịch), Nxb Phương Đông, tr. 123.
[7]x. Bernard Morichere& Nhóm giáo sư triết học các trường Đại học Pháp, Triết học Tây Phương từ khởi thủy đến đương đại, Phạm Quang Định (biên dịch), Nxb Văn Hóa Thông Tin, tr. 1142.
[8]x.Nguyễn Đăng Trực, Lý học về Thượng Đế, Học viện Đaminh, 2002, tr. 34-35.
[9]x.J.p.Sartre, Ruồi, Sđd: Nhân vật Giuypite, đại diện cho Thượng Đế với cái nhìn thấu suốt, nhòm ngó con người. Nhân vật Êlêchtr, đại diện cho những con người mang mặc cảm tội lỗi vì hành động sai trái của mình.
[10] x.P. Emonet OP, Triết học về con người, Lâm Văn Sĩ OP (dịch), Học viện Đaminh, 2014, tr. 142.
[11] Joseph Ratzinger, Đức Giê-su thành Nazareth Phần I, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2013.
[12] x. N. Berdyaev, Thế giới quan của Dostoevsky, dịch giả Nguyễn Văn Trọng, Nxb Tri Thức, 2017, tr. 89.
[13] x. Trần Thái Đỉnh, Triết học Kant, Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2005, tr. 225-247.
[14] x. Phanxico, Tông huấn Chúa Kitô đang sống (Christus Vivit), Nxb Tôn giáo, 2019, tr. 46.
[15] x. Phanxico, Tông huấn Chúa Kitô đang sống (Christus Vivit), Sđd, tr. 66.
[16] x. Dale Carnegie, Quẳng gánh lo đi & vui sống, Nxb Tổng hợp Tp. HCM, 2015, tr. 25.
[17] x. Phanxico, Tông huấn Chúa Kitô đang sống (Christus Vivit), Sđd, tr. 89.
 

Tác giả: Dom. Nguyễn Nghĩa

Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây