Podcast: Tiếng khóc, lời cầu nguyện đầy sức mạnh
Thứ hai - 28/07/2025 23:42
438
Các bạn có thể nghe bài viết tại đây:
Ngày 29/07, Phụng vụ kính nhớ ba chị em: Mácta, Maria và Ladarô. Có rất nhiều điều để nói về ba chị em này, nhưng có một chi tiết tuy không quá nổi trội, thế mà lại có thể làm nên một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong dòng chảy tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, đó là giọt nước mắt của Maria khi gặp Đức Giêsu sau cái chết của em trai mình. Sở dĩ có thể nói như thế, là bởi vì, đối diện với giọt nước mắt đó, Đức Giêsu, Đấng trọn vẹn là Thiên Chúa, đã thổn thức, xao xuyến trong lòng, và Ngài khóc (x.Ga 11,33.35.38). Một Thiên Chúa quyền năng lại bật khóc, thật đáng kinh ngạc làm sao! Điều này rất đáng để chúng ta dừng lại lâu hơn, để suy tư về giọt nước mắt của con người.
Tiếng khóc luôn theo con người trong suốt hành trình cuộc đời, từ khi sinh ra cho tới khi nhắm mắt lìa đời. Nó thuộc về “kho tàng chung” của nhân loại, vì có thể truyền tải những thông điệp mà dù khác biệt về quốc gia, văn hóa, ngôn ngữ, địa vị xã hội, mọi người vẫn có thể hiểu được. Nhiều người tìm thấy trong sự “phổ quát” của tiếng khóc một minh chứng hùng hồn cho khẳng định “đời là bể khổ”. Nhưng cho dẫu đó có là sự thổn thức của một trái tim đang tan nát vì sầu khổ, thì nó cũng không bao giờ chỉ đóng khung, dừng lại với nỗi đau của chính mình. Ẩn sau mỗi tiếng khóc luôn là nỗi khát khao cháy bỏng mở ra với một cái gì khác, để được đồng cảm, ủi an và chữa lành.
Thuở sơ sinh, khi chúng ta chưa thể diễn tả suy nghĩ, mong muốn của mình, ngay cả bằng những tiếng bập bẹ non nớt, tiếng khóc đóng vai trò như một thứ ngôn ngữ đơn giản, cho biết đang có vấn đề gì đó không ổn với mình: đang đói, cần thay tã, đau ốm hoặc cảm thấy bất an khi rời xa vòng tay che chở của người thân… Ngay cả lúc đã trưởng thành, khi chúng ta có thể diễn tả chính xác, sinh động những điều mình muốn, tiếng khóc vẫn giữ vai trò như một thứ ngôn ngữ của con tim. Khi bóng đêm của thất bại, sợ hãi, đau khổ và tuyệt vọng phủ bóng đen lên cuộc đời của chúng ta, khiến cho ngôn ngữ của chúng ta trở nên nghèo nàn và tê liệt, tiếng khóc lập tức bật ra như một cách diễn tả chính xác nhưng cũng đầy cô đọng thảm cảnh chúng ta đang phải đối mặt. Không ít lần chúng ta từng chứng kiến những người, trong tận cùng của nỗi đau, không thể thốt ra một lời nào, mà chỉ có những tiếng khóc nghẹn ngào, tức tưởi.
Mặc dù chỉ là một thứ ngôn ngữ đơn giản, ngay khi sinh ra chúng ta đã biết dùng thứ ngôn ngữ này, nhưng để “cảm và chạm” được nó cần phải có sự mẫn cảm, nhạy bén và mềm mại của con tim. Với những người chẳng có cảm tình gì với chúng ta, tiếng khóc của chúng ta chỉ là một chuỗi những thanh âm vô nghĩa, khó chịu, thậm chí là một điều đáng mừng, nhưng với những người yêu thương chúng ta, họ sẽ không bao giờ cảm thấy như vậy. Trước tiếng khóc, những ai có trái tim yêu thương sẽ không để mình trở thành một lữ khách qua đường, chỉ bàng quan đứng nhìn; nhưng thực sự cảm thấy thổn thức như thể tiếng khóc đó cũng chính là nỗi lòng của chính mình. Thậm chí, nếu tình yêu đủ sâu đậm, chúng ta sẽ chẳng thể nào cầm được nước mắt khi chứng kiến người mình yêu rơi lệ. Tất cả chúng ta đều thấy mình yếu đuối trước giọt nước mắt của những người chúng ta yêu thương. Chúng ta cảm thấy một sự thôi thúc mãnh liệt phải làm mọi thứ trong khả năng để có thể lau khô đi những giọt lệ đó. Một đứa con ngỗ nghịch có thể trơ lì trước những lời răn dạy đầy triết lý, những roi đòn của người cha; nhưng nó sẽ không đủ can đảm để đối diện với giọt nước mắt của người mẹ, bao lâu nó còn có “trái tim bằng thịt”. Bởi thế, tiếng khóc không chỉ khơi lên sức mạnh của tình yêu, mà còn là ngôn ngữ diễn tả của chính tình yêu.
Tiếng khóc tưởng chừng như là biểu hiện của sự yếu đuối, nhưng rất nhiều khi, nó lại hàm chứa nơi mình một sức mạnh lớn lao. Ngay cả khi tiếng khóc chỉ vang lên trong cõi riêng tư, chỉ mình mình biết, thì nó đã mang nơi mình khả năng kỳ diệu của sự chữa lành. Có lẽ nhận thức được điều đó nên người ta vẫn thường an ủi nhau: “Cứ khóc đi cho vơi bớt nỗi sầu. Khóc được sẽ nhẹ lòng”. Thế nhưng, chắc hẳn ít ai trong chúng ta dừng lại lâu hơn, để tìm hiểu nguyên nhân tại sao tiếng khóc lại có năng lực kì diệu như thế?
Bỏ qua những phân tích về khía cạnh tâm lý, cơ chế sinh học của tiếng khóc, chúng ta hãy đi đến ngọn nguồn của câu trả lời. Đó là chắc hẳn khi tạo dựng, Thiên Chúa đã trao sức mạnh đó cho tiếng khóc. Sức mạnh này hệ tại ở việc lúc khóc là lúc con người dễ mở lòng, vượt thoát ra khỏi cái tôi cá nhân tự mãn, để cho Thiên Chúa cơ hội được đụng chạm đến cuộc đời của mình. Do vậy, khi nói sức mạnh của tiếng khóc, thực ra chỉ là cách nói khác về sức mạnh của sự đụng chạm của Thiên Chúa trên tâm hồn con người. Tiếng khóc lôi con người ra khỏi sự kiêu hãnh, tự phụ, chỉ cậy dựa vào sức mình, để đặt họ đối diện với sự thật trần trụi về chính thân phận mình: mong manh, yếu đuối và đầy giới hạn. Chính lúc con người nhận thức được điều đó và biết ngước nhìn lên Thiên Chúa, lại là lúc họ được nâng lên cao nhất. Trong ý nghĩa đó, thánh Phaolô có thể tuyên bố: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Trong nhiều phép lạ, Đức Giêsu đòi người ta phải chủ động bày tỏ mong muốn của mình một cách đầy xác tín, mạnh mẽ. Nhưng khi đối diện với tiếng khóc nức nở của bà góa mất đi đứa con trai duy nhất, Đức Giêsu đã chủ động lên tiếng an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13) và làm cho con trai bà sống lại, dù bà chẳng ngỏ với Ngài bất cứ lời nào. Với Đức Giêsu, tiếng khóc bật lên trong đớn đau, tuyệt vọng của kiếp người, tự nó đã là một lời cầu xin tha thiết nhất. Với tiếng khóc ấy, kẻ đáng thương chạm được tới được trái tim yêu thương của Đấng thương xót, và bất cứ sự đụng chạm thực sự nào đến Ngài, cũng đều mang sức mạnh, quyền năng của sự chữa lành.
Một tiếng khóc không chủ ý hướng về Thiên Chúa đã có sức mạnh chữa lành to lớn như vậy, huống chi tiếng khóc được dệt thành lời cầu nguyện. Giọt nước mắt đó không chỉ khiến lời cầu nguyện của ta dễ được Thiên Chúa nhận lời, mà còn thực sự có sức mạnh làm nên những vị thánh, dù quá khứ của họ có lem luốc thế nào đi nữa. Hẳn chúng ta đều biết câu chuyện về thánh Phêrô, sau khi chối Thầy đến ba lần, đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Chẳng phải do tội của thánh Phêrô ít nghiêm trọng hơn của ông Giuđa mà một người trở nên một vị đại Thánh, một người thì không; nhưng là vì một người đã dùng những giọt nước mắt hối hận để gột rửa vết nhơ tội lỗi của mình, một người lại hủy hoại đời mình trong sự tuyệt vọng. Rồi câu chuyện về người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt tưới đẫm chân Đức Giêsu nên đã được Ngài tuyên bố: “Tội chị ấy tuy nhiều nhưng đã được tha, bằng chứng là chị ấy yêu mến nhiều” (Lc 7,47). Như thế, tiếng khóc hối hận sẽ là bước khởi đầu quan trọng để một tội nhân trở nên một thánh nhân. Không chỉ có khả năng biến chúng ta thành những vị thánh, tiếng khóc của chúng ta còn làm cho người khác cũng được nên thánh, nếu chúng ta dùng tiếng khóc của mình để cầu nguyện cho họ. Thánh Giám mục Ambrôsiô đã xác quyết với thánh nữ Monica rằng: “Một người mẹ khóc lóc cầu nguyện cho con mình, thì chắc chắn đứa con ấy sẽ không bị hư mất”.
Như thế, lời cầu nguyện đẹp nhất không hẳn phải là một chuỗi những ngôn từ hoa mỹ, được trau chuốt tỉ mỉ từng câu từng chữ; nhưng nhiều lúc lại là lời cầu nguyện bị ngắt quãng bởi tiếng nấc uất nghẹn, tiếng thút thít nghẹn ngào, vọng lên từ tâm hồn nhàu nhĩ vì bị chà đạp, với gương gặp lem luốc bởi những giọt nước mắt lã chã rơi. Quả đúng như xác tín của Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50,19). Xác quyết này được đặt nền tảng trên chính bản tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa, theo mặc khải của Kitô giáo, không bao giờ là một Thiên Chúa tự nhốt chặt trong sự toàn hảo, bất biến của chính mình đến độ trở nên “miễn nhiễm”, dửng dưng, vô cảm với những đau khổ của kiếp người; nhưng là một Thiên Chúa dễ mủi lòng, một Đấng chạnh lòng thương, Đấng cảm thông với tiếng kêu của những con người phận nhỏ: cô nhi, quả phụ, những ai đang phiền não trong tâm hồn… Trong bài giảng trên núi, chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5,5). Thậm chí, chính Ngài cũng xao xuyến trong lòng và bật khóc khi chứng kiến người Ngài yêu mến đang khóc (x.Ga 11,33.35.38). Bởi đó, Thiên Chúa không bao giờ đứng ngoài cuộc, Ngài liên đới với con người cả trong những tối tăm cùng cực nhất, Ngài đã trở nên một “Thiên Chúa với những giọt nước mắt con người”. Bất cứ điều gì được Đức Giêsu đảm nhận, thì đều được thăng hoa, được mang nơi mình một ý nghĩa thiêng thánh, đến độ nếu phủ nhận chúng, thì sẽ làm nghèo nàn đi nhân tính và phẩm giá của con người. Nên thật là một sai lầm, nếu chủ trương loại bỏ tiếng khóc ra khỏi đời sống con người, nhất là trong đời sống thiêng liêng.
Tiếng khóc có sức mạnh là thế, tuy nhiên, không phải lúc nào, hay bất cứ đâu, chúng ta cũng có thể khóc một cách vô tư, thoải mái. Trong một thế giới đầy rẫy sự dửng dưng, thậm chí hiểm nguy và đe dọa, chúng ta có lý do để sợ bị người khác bắt gặp mình đang khóc. Chúng ta không muốn cho những kẻ thù ghét mình có dịp được hả hê, thỏa chí; càng không muốn những kẻ đó lợi dụng cơ hội lúc chúng ta yếu đuối, không còn khả năng tự vệ, để bồi thêm những “đòn chí mạng”, khiến chúng ta càng thê thảm hơn. Hơn nữa, khóc lóc để làm chi nếu chỉ nhận được sự thương hại kiểu bố thí, sự dửng dưng hay thậm chí sự phán xét, chê cười, chế giễu? Khi đó, chẳng những việc này không làm cho chúng ta cảm thấy khá hơn, mà trái lại, càng khiến cho nỗi đau khổ của chúng ta thêm trầm trọng, chẳng khác gì chúng ta đang tự mình xát muối vào vết thương đang há miệng, khiến bản thân cảm thấy tức giận, cô độc, kệch cỡm thậm chí rẻ mạt. Lúc đó, thay vì phải yêu thương bản thân nhiều hơn, chúng ta lại cảm thấy càng chán ghét và khinh miệt chính mình vì đã trót lộ ra sự yếu đuối của bản thân.
Nỗi e sợ như thế ngày càng trở nên mạnh mẽ, đến độ, lâu dần chúng ta dễ coi chuyện khóc lóc là một chuyện con nít, tầm phào, nhảm nhí. Thế nhưng, nếu những người đang khóc thường bị coi là những kẻ đáng thương, thì những người đánh mất khả năng khóc, lại còn đáng thương hơn nữa. Bởi lẽ, không còn biết khóc là một biểu hiện rõ ràng của sự nghèo nàn, tê liệt về nhân tính. Một cuộc đời dù hoàn hảo tốt đẹp đến mấy đi chăng nữa, vẫn không thiếu những lý do đáng làm cho chúng ta rơi lệ. Lý do đó có thể liên hệ đến chính bản thân chúng ta, những người chúng ta yêu mến, hoặc đôi khi chỉ là “Trăm năm trong cuộc bể dâu, những điều mắt thấy mà đau đớn lòng”. Ngay cả khi là một người mạnh mẽ, không ít lần, chúng ta cũng muốn mình được yếu đuối trong vòng tay của những người yêu thương, bởi lúc đó, chúng ta sẽ cảm nhận thấy tình yêu của họ dành cho mình một cách rõ ràng nhất. Do đó, những người không còn biết khóc hoặc là tâm hồn họ đã trở nên mảnh đất khô cằn, chết chóc; hoặc là họ quá cô độc đến độ chẳng còn ai đủ tin tưởng để trao nhận yêu thương.
Bởi thế khi yếu đuối, chúng ta đừng cố gồng lên như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Làm thế không khiến chúng ta mạnh mẽ hơn, chúng ta chỉ đang tự huyễn hoặc chính mình. Nếu chúng ta không có ai để giãi bày sự yếu đuối của mình, thì vẫn luôn có đó một Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta đến tâm sự với Ngài. Khi giọt nước mắt của chúng ta gặp được cái nhìn yêu thương của Ngài, tâm hồn sầu khổ của chúng ta sẽ được chữa lành, và một khởi đầu mới tốt đẹp đang mở ra đầy huy hoàng trước mắt chúng ta.