Hoặc hy vọng, hoặc không
Thứ hai - 10/11/2025 19:20
16
Chúng ta đang bước qua những chặng hành hương cuối cùng trước khi cánh cửa “Năm Thánh những người hành hương của hy vọng” khép lại. Hẳn nhiên, trong suốt Năm Thánh, Suối Nguồn Hy Vọng đã tuôn đổ trên nhiều tâm hồn, đặc biệt những tâm hồn khắc khoải, khao khát và thành tâm hành hương về với Thiên Chúa. Tuy nhiên, “hy vọng” phải là một cụm từ được Giáo hội dùng làm chủ đề của Năm Thánh nơi băng rôn, khẩu hiệu, lễ hội… để rồi Năm Thánh khép lại, cụm từ “hành hương của hy vọng” cũng bốc hơi, hoặc chỉ còn sót lại cái gì đó hay hay, mà chẳng mang lại giá trị gì; “hy vọng” cũng chẳng phải là một chủ đề hấp dẫn để mổ xẻ, để bàn luận cho vui, rồi khi hết ơn toàn xá, niềm hy vọng lại bị lãng quên hoặc bị xếp nó kho và khoá chặt lại… Hy vọng không phải và không bao giờ là một thực tại ứ đọng để nắm giữ, thao túng, hay định hướng. Trái lại, hy vọng luôn là thực tại sống động với hữu thể người, vì con người chỉ hiện hữu khi còn hy vọng. Hy vọng thường xuyên được biểu đạt trong cuộc sống, nhưng niềm hy vọng Ki-tô giáo là một thực tại không phải đến từ con người, mà là một nhân đức đối thần, nghĩa là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu khi ta đặt niềm tin vào Đức Ki-tô, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không vào sức mạnh của chúng ta. Đặc biệt, thực tại này được Giáo hội hoàn vũ nhấn mạnh hơn trong suốt Năm Thánh Hy Vọng, để khơi lên trong tận sâu thẳm con người một niềm hy vọng không bao giờ thất vọng, chẳng bao giờ lụi tàn hay vụt tắt. Niềm hy vọng Ki-tô giáo hướng đạt tới một thực tại vĩnh cửu, nơi con người không cần phải hy vọng gì khác nữa, đó là chính Thiên Chúa.
Trong chiều hướng đó, dù Năm Thánh đang dần khép lại, nhưng những người lữ hành của hy vọng là chính mỗi người chúng ta không bao giờ chôn vùi, hay hay gói gọn để sống niềm hy vọng trong một thời gian ngắn ngủi. Trái lại, hy vọng luôn gắn với con người bao lâu con người còn hiện hữu, và không ngừng đẩy bước con người tiến về phía trước, nơi Niềm Hy Vọng đích thực đang chờ đón. Dẫu vậy, trong một không gian mà sự thất vọng ngày càng tràn lan bởi thất bại, tội lỗi, cùng tội ác; khi còn người như thể bị ngập ngụa, chết chìm trong thời đại của sự cuồng vọng, nơi một số kẻ tự cho mình là Chúa, thống trị thế giới và người khác; và nhất là khi nhiều tâm hồn như thể lạc trôi trong những không gian của sự ảo vọng nơi thế giới hư vô, hẳn nhiên chúng ta thật dễ bị lung lay, nghiêng ngả, thậm chí đánh mất niềm hy vọng. Chính vì thế, Năm Thánh Hy Vọng chính là khoảng không quý giá để mỗi người kín múc và khơi lên cho chính mình niềm hy vọng đích thực được neo đậu nơi Đức Ki-tô. Để rồi, trong niềm tin và tình yêu vào Đấng đã chết và phục sinh để thắp lên niềm hy vọng đích thực cho con người, chúng ta xác tín rằng trong cuộc hành hương liên lỉ tiến về Quê Trời, chúng ta vẫn tiếp tục miệt mài tiếp bước cuộc hành hương trong hy vọng của những người hành hương, bởi vì còn hiện hữu, chúng ta còn phải hành hương. Do đó, chúng ta chỉ có thể chọn lựa “hoặc hy vọng hoặc không…”: không tin, chẳng yêu, không hiện hữu và không gì cả…
Hoặc hy vọng hoặc… không tin
“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Đức Bênêđictô XVI trong Thông điệp Spe Salvi đã minh định: “Đức tin không chỉ đơn thuần là sự vươn tới của cá nhân hướng về những điều sẽ xảy đến nhưng đến nay vẫn hoàn toàn vắng bóng: đức tin còn đem lại cho chúng ta điều gì đó. Đức tin đem đến cho ta ngay cả lúc này đây những phần của thực tại chúng ta đang trông chờ, và thực tại này đem đến cho chúng ta một ‘bằng chứng’ về những điều còn chưa thấy. Đức tin kéo tương lai về với hiện tại đến mức tương lai không còn đơn thuần là một điều gì đó ‘chưa đến’. Sự kiện là tương lai này đang hiện hữu thay đổi hiện tại; hiện tại này được thực tại trong tương lai tác động đến, và vì thế những gì của tương lai tuôn trào vào những gì của hiện tại và những gì của hiện tại tuôn trào vào những gì của tương lai”. Theo đó, có thể nói “điều gì đó mà đức tin đem lại” mà Đức Thánh cha nói tới là chính niềm hy vọng!
Quả thật, chúng ta chỉ có thể hy vọng nơi những thực tại mà chúng ta tin, nhất là với những thực tại mà lý trí con người không thể tự mình vươn tới hay nắm giữ. Do đó, khi không còn nơi mình niềm hy vọng, chắc chắn chúng ta cũng sẽ không tin: Không tin vào ai? Chẳng tin cái gì? Bởi tin như thế nào, tin ra sao khi chẳng có gì để hy vọng, để chờ mong, để ước ao? Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về niềm tin, hoặc niềm tin thông thường, hoặc niềm tin tôn giáo. Theo đó, “không ai không tin cái gì và chẳng ai cái gì cũng tin, và như thế cũng chẳng ai không hy vọng điều gì! Có thể nói tôi tin, tôi cũng hy vọng”! và ngược lại “tôi hy vọng, tôi tin!” Cách cụ thể: “Hoặc hy vọng hoặc không tin!” Tóm lại, để hiện hữu có ý nghĩa, chắc chắn chúng ta phải hy vọng, nghĩa là khao khát, chờ mong một điều gì đó trong cuộc sống hay trong niềm tin của mình. Và như thế, chỉ có niềm tin nơi Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, đặc biệt nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng chết và sống lại để hiện thực hoá niềm hy vọng sâu thẳm nơi con người, mới có thể đẩy bước niềm hy vọng đích thực của chúng ta tới sự sống và hạnh phúc đời đời.
Hy vọng hoặc… chẳng yêu
Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4,8) và con người là một hữu thể của tình yêu vì là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,27). Theo đó, tình yêu là luật căn bản và là cùng đích căn bản của cuộc sốnglà một thực tại mang tính bản chất của con người, con người không thể hiện hữu mà không yêu và không được yêu. Ngay trong kinh nghiệm bình thường của con người, hiện diện của tình yêu là một hiện diện bao trùm, liên hệ đến tất cả, kể cả Thiên Chúa. Như thế, tình yêu không chỉ là hiện tượng bên ngoài, mà còn là điều làm nên “con người xét là người” hay đúng hơn, không thể nói đến con người mà lại không nói đến tình yêu. Nhưng nếu không có niềm hy vọng, hẳn nhiên chúng ta cũng không thể yêu ai và chẳng thể được ai yêu, nghĩa là tôi yêu, tôi hy vọng và tôi hy vọng, tôi yêu!
Quả thật, khi yêu ai chúng ta luôn đặt nơi người ấy một niềm hy vọng về một điều gì đó và càng yêu một người, chúng ta càng đặt hy vọng nơi người ấy. Thành ra, thực tế đã chứng minh thật tường minh, nhưng cũng chát chúa rằng những tương quan tưởng như bền vững như tình yêu vợ-chồng, cha mẹ-con cái, bạn bè… khi rạn nứt, đổ vỡ lại khó hàn gắn nhất. Có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân nền tảng xuất phát từ việc hai bên hoặc một bên không còn thấy nơi người mình yêu hay được yêu niềm hy vọng mà mình đã kì vọng, và đương nhiên càng yêu nhiều, càng yêu sâu đậm thì khi hết yêu, sự thất vọng lại càng lớn. Do đó, “yêu nhau lắm cắn nhau đau” là thế. Chính vì thế, chúng ta không thể yêu ai hay được ai yêu nếu không có niềm hy vọng, nghĩa là hoặc hy vọng hoặc không yêu. Chỉ khi có hy vọng, con người mới có thể thể yêu và trao ban tình yêu, cũng như có khả năng đón nhận tình yêu…
Hoặc hy vọng hoặc… không hiện hữu
Ở đây, trước hết, ta cần phân biệt “hiện hữu” và “tồn tại”. Hiện hữu (to be, esse) không hoàn toàn đồng nghĩa với tồn tại (to exist). Trong khi “esse” hay “hiện hữu” diễn tả một hiện thế, thì tồn tại chỉ có nghĩa rằng một sự vật đang có đó. Khi quả quyết một sự vật tồn tại, chúng ta muốn nói rằng nó là thực, rằng nó không phải là hư vô, rằng nó đang ở đó. Tuy nhiên, hiện hữu nói đến điều gì đó ở bên trong nhiều hơn, chứ không thuần túy nói đến một sự kiện có đó nơi thực tại, đúng hơn nó là hoàn bị thâm sâu của một sự vật và là nguồn mạch cho mọi hoàn bị khác. Tồn tại không diễn tả điều gì khác hơn là khía cạnh bên ngoài của hiện hữu, nó là hiệu quả của hiện hữu. Nghĩa là một hữu thể có hiện hữu thì sẽ tồn tại, còn có tồn tại chưa chắc đã hiện hữu.
Trong chiều hướng đó, vì con người chỉ hiện hữu khi còn hy vọng, nên khi không còn hy vọng, hẳn nhiên con người không còn tự do. Khi đó, chúng ta có thể vẫn tồn tại, nhưng sự tồn tại ấy chỉ như một thứ vô tri vô giác và không hiện hữu tròn đầy. Thành ra, muốn hiện hữu có ý nghĩa và tròn đầy, chắc chắn chúng ta phải có niềm hy vọng. Và hiện hữu của chúng ta chỉ nên tròn đầy nơi Thiên Chúa. Chính vì thế, chẳng có niềm hy vọng nào lấn át hay tước đoạt được niềm hy vọng của chúng ta nơi Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta hằng hy vọng và ước mong được chiêm ngưỡng, được hưởng kiến và được ở cùng trong tình yêu và sự sống muôn đời.
Hoặc hy vọng hoặc… không gì cả
Hình ảnh niềm hy vọng còn sót lại trong chiếc hộp Păng-đo cho chúng ta thấy rằng niềm hy vọng chính là thực tại duy nhất còn sót lại giúp con người hiện hữu và tiến bước trong hành trình lữ hành của kiếp nhân sinh. Nhờ hy vọng, con người đủ can đảm, đủ sức mạnh để đối diện với sự nhiễu nhương của mọi tai ương như bệnh tật, già nua, đau khổ, tội lỗi… và cái chết, những thực tại đáng sợ đã tuôn ra từ chiếc hộp Păng-đo. Nói lên tầm quan trọng của hy vọng như thế để cho thấy nếu đến chỉ một chút hy vọng mà chúng ta cũng để bị bốc hơi khỏi tâm hồn, khỏi cuộc đời, hẳn nhiên chúng ta cũng không thể giữ lại niềm tin, cũng chẳng thể yêu, và không thể hiện hữu đúng nghĩa, hay có chăng chỉ là một sự tồn tại lay lắt. Do đó, không còn niềm hy vọng, chúng ta chẳng có gì và chẳng còn lại gì, nghĩa là hoặc hy vọng hoặc không gì cả.
Tắt một lời, hành trình Năm Thánh chính là một cơ hội tuyệt với giúp chúng ta làm mới lại niềm hy vọng nơi chính mình. Qua đó, chúng ta biết cách níu giữ lại niềm hy vọng trong cuộc sống, cũng như vươn tới neo đậu niềm hy vọng của mình nơi “chiếc neo hy vọng” vững chắc và bền vững là chính Đức Giê-su Ki-tô. Đồng thời, Năm Thánh khép lại không phải dừng hy vọng hay thôi hy vọng, hoặc tệ hơn là đánh rơi, đánh bay, đánh mất hy vọng. Trái lại, sau khi kín múc nguồn ân sủng và niềm hy vọng vững chắc nơi Thiên Chúa trong Năm Thánh Hy Vọng, mỗi người chúng ta có sứ mạng trở thành những chứng nhân của niềm hy vọng cho con người trong thế giới hôm nay. Để rồi, bằng một đời sống chứng tá đúng “chất Công Giáo”giữa đời, mỗi người chúng ta biết lan toả niềm hy vọng Ki-tô giáo, niềm hy vọng đích thực mà chúng ta đã kín múc, được neo đậu nơi nguồn hy vọng là Đức Ki-tô cho những người đang cần lắm niềm hy vọng. Nhờ đó, giữa một nhân loại đang loay hoay, bế tắc trong sự tuyệt vọng của chiến tranh, bạo lực và nhất là tội lỗi, mỗi chúng ta, những người Ki-tô hữu, sau được ngụp lặn trong và lãnh nhận hồng ân hy vọng của Chúa, không bo bo giữ lại cho riêng mình, nhưng biết quảng đại trao ban cho người khác, gieo và thắp lên trong tâm hồn bao người niềm hy vọng, để hạt giống hy vọng có thể cắm rễ, lớn lên và triển nở trong thế giới hôm nay…
Cf. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1817
Cf. Joseph ratzinger, Thiên chúa và trần thế, Nxb. Tôn Giáo, tr. 185
Cf. Athanase Nguyễn Quốc Lâm, Ngữ pháp của tình yêu, mạc khải – đức tin, Thần học căn bản, Nxb Tôn Giáo, tr. 310
Tomas Alvira, Luis Clavell, Tomas, Siêu hình học, Giuse Đỗ Ngọc Bảo, O.P, Lưu hành nội bộ, tr. 32-33