Tự do trong thế giới quan tinh thần của Dostoevsky
Thứ năm - 02/10/2025 05:34
11
Với Dostoevsky, cuộc đời con người chẳng còn ý nghĩa và giá trị nếu không có tự do. Nhưng để có được thứ tự do đích thực, con người phải luôn chiến đấu giằng co chọn lựa thiện và ác. Từ đó, Dostoevsky đẩy con người đến chỗ nhìn nhận sự bất lực của mình trước cái ác. Càng làm điều ác, con người thay vì giải thoát mình, họ càng ngập chìm trong cái ác và sự hư vô của tự do chủ nghĩa. Để đạt được tự do đích thực, con người phải đau khổ. Đau khổ sẽ dẫn con người đến chỗ nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa thay vì phủ nhận như một số trường phái, mà đỉnh cao là qua sự đau khổ của Thần-Nhân Ki-tô, nơi mọi câu đố về con người được giải đáp một cách thỏa đáng.
1. Tự do – nền tảng hữu thể người
Trước hết, không thể phủ nhận đề tài về con người và số phận của nó luôn được Dostoevsky triển khai trên nền tảng đề tài về tự do. Nếu con người là trung tâm của hiện hữu thì tự do là trung tâm của hữu thể người vì không thể hiểu được con người nếu không nhìn nhận hoặc tách rời tự do khỏi hữu thể người. Tự do là nền tảng cho chính sự hiện hữu của con người và không có tự do, chẳng có gì liên quan đến con người còn giá trị và con người lúc đó cũng không còn số phận và ý nghĩa. Số phận con người luôn gắn liền với những cuộc phiêu lãng đầy đau khổ của nó được xác định bởi tự do. Tự do đứng ngay ở trung tâm thế giới quan và là cốt lõi toàn bộ sáng tác của Dostoevsky.
Tiếp đến, Dostoevsky đã có những ý tưởng thật thiên tài về tự do mà thậm chí đến nay vẫn chưa được nghiên cứu đủ. Theo N. Berdyaev, tự do đối với Dostoevsky là biện nhân luận và biện thần luận nghĩa là tự do biện minh cho cả sự hiện hữu của con người và Thiên Chúa. Qua tự do, con người có thể nhận ra ý nghĩa đích thực sự hiện hữu của mình và sự hiện hữu của Thiên Chúa. Toàn bộ những tiểu thuyết bi kịch của ông là sự thử thách tự do của con người. Con người bắt đầu từ chỗ nổi loạn tuyên cáo về tự do, sẵn sàng chịu mọi đau khổ, chịu điên rồ chỉ miễn sao được cảm thấy mình tự do[1] bởi vì khi đó “tự do đối với hắn không còn gì thú vị nữa, hắn sẽ nghĩ ngợi, rối trí, quằn quại, làm cho mình mắc míu thêm như vướng lưới, tự giày vò mình đến chết được!”[2].
Cùng với đó, khi đặt tự do như yếu tố nền tảng của sự hiện hữu, những tư tưởng của Dostoevsky về tự do như một lời tiên tri, bởi vì sau các nhân vật của Dostoevsky, một thế kỉ XX chưa được biết rõ đã mở ra. Tình trạng không biết rõ vĩ đại bộc lộ bản thân mình như cuộc khủng hoảng văn hóa, như sự kết thúc của cả một thời kì của lịch sử thế giới với sự lên ngôi của chủ nghĩa cá nhân cực đoan, biến con người trở thành nô lệ cho chính những sự tự do giả tạo của mình, nơi những ham muốn và danh lợi chi phối đời sống của con người. Sự tìm kiếm tự do của con người bước vào một giai đoạn mới. Chính Dostoevsky chỉ ra số phận bi thảm của tự do ở trong số phận các nhân vật của ông: tự do biến thành tự tung tự tác, biến thành sự tự khẳng định mang tính nổi loạn của con người, đó là một thứ tự do cá nhân vô kỉ luật vẫn đang hiện tồn cho đến ngày hôm nay. Tự do đó là một thứ tự do không có đối tượng, trống rỗng, nó làm biến chất và trống rỗng con người.[3]
Như thế, tự do của Dostoevsky không thể tách rời hữu thể người. Trong thế giới hiện đại, nhiều người, trong cơn nổi loạn đã nhân danh tự do, lấy mình làm tiêu chuẩn định giá mọi sự, để rồi khi tưởng chừng được tự do tuyệt đối, họ lại chìm vào tình trạng tuyệt đối không tự do và đau khổ. Như thế, con người chỉ là người, chỉ hiện hữu khi có tự do vì đó là nền tảng, là trung tâm của con người và trong chiều kích này thì tự do chính là cha đẻ của thiện ác.
2. Tự do – cha đẻ thiện - ác
Với Dostoevsky, con đường tự do là con đường của những con người đầy những dày vò và đau khổ bởi nó là cha đẻ của thiện – ác. Tự do là gì nếu không phải là khả năng chọn lựa và khi có tự do, con người có khả năng chọn lựa. Khi chọn lựa con người chấp nhận và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Hành vi là tốt hay xấu, đúng hay sai hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự do của con người. Tuy nhiên, tự do có bản chất độc đáo riêng của nó, tự do là tự do chứ không phải là điều thiện cũng chẳng phải là điều ác. Mọi sự đồng nhất tự do với thiện hoặc ác đều là phủ định tự do, là sự thừa nhận những con đường cưỡng bức và bạo lực. Điều thiện bị cưỡng bức không còn là điều thiện nữa mà bị biến chất thành cái ác. Điều thiện tự do là điều thiện duy nhất đặt ra tự do cho cái ác. [4] Điều thiện không thể bị cưỡng bức, cũng không thể cưỡng bức theo điều thiện. Tự do của điều thiện đặt ra tự do của cái ác. Tự do của cái ác thì dẫn đến tiêu hủy bản thân tự do, dẫn đến biến chất tất yếu thành ác quỷ. Do đó, thiện và ác đều là con đẻ của tự do nhưng lại dẫn con người đi theo hai con đường hoàn toàn khác nhau.
Cụ thể, tự do nổi loạn trong các nhân vật của Dostoevsky đạt tới giới hạn cuối cùng của độ căng thẳng. Các nhân vật của Dostoevsky đánh dấu một thời khắc mới trong số phận con người ở bên trong thế giới Ki-tô giáo. Những Raxkonikov, Stavrogin, Kirilliov, Ivan Karamazov đều đạt tới mức độ căng thẳng tột độ và đứng cuối con đường của tự tung tự tác. Tự do của Stavrogin và Versilov là không có đối tượng và trống rỗng, tự do của Svidrigailov và Fydor Pavlovich Karamazov làm tha hóa nhân cách. Trong khi tự do của Raxkonicov và Potr Verkhovensky dẫn đến tội ác, thì tự do ác quỷ của Ivan Karamazov làm con người tiêu vong. Tự do như là tự tung tự tác, tự hủy diệt mình, chuyển thành thứ đối lập với chính nó, làm con người tha hóa và tiêu vong. Tự do như thế sẽ dẫn đến tình trạng nô lệ, làm tắt đi hình tượng con người và sự tất yếu nội tại không tránh khỏi từ bên trong. Trong khi đó, cũng là tự do, nhưng tự do nơi Xonia hay Alyosha lại là thứ tự do đích thực có giá trị giải phóng con người khỏi những ràng buộc, khỏi cái ác, để đạt tới Chân Lý và Tình Yêu dù phải trải qua đau khổ và thử thách.
Tóm lại, số phận con người, tự do của con người là như thế, con người với tư cách là một hữu thể tự do, luôn phải đứng trước các lựa chọn và các lựa chọn đó làm nên giá trị của hành vi là tốt hay xấu, là đúng hay sai. Dostoevsky với thiên tài của mình đã khai mở tự do ấy. Con người phải đi theo con đường tự do, nhưng tự do sẽ trở thành tình trạng nô lệ, tự do sẽ tiêu hủy con người, khi con người trong cơn cuồng loạn tự do của mình không còn muốn biết đến cái gì cao cả hơn là chính bản thân con người. Nếu như không có cái gì cao cả hơn con người thì cũng sẽ không còn con người. Điều này được thể hiện rất tài tình qua hình tượng các nhân vật trong Tội ác và Trừng phạt và Anh em nhà Karamazov. Theo đó, nếu mọi thứ đều được phép đối với con người, thì tự do của con người sẽ trở thành nô dịch chính bản thân mình. Tình trạng nô lệ chính bản thân mình sẽ tiêu hủy chính con người. [5] Con người sẽ chỉ đạt tới tự do đích thực qua con đường của Chân Lý.
3. Chân Lý – con đường dẫn đến tự do
Theo triết gia N. Berdyaev, Dostoevsky để cho con người đi theo con đường tự do tiếp thu cái Chân Lý vốn sẽ làm cho con người được tự do triệt để và đó mới là tự do đích thực mà con người thực sự khao khát. Thế nhưng, con đường ấy luôn phải đi qua bóng tối, đi qua vực thẳm, qua sự phân đôi và bi kịch.
Với Dostoevsky, con đường ấy không thẳng, chẳng dễ đi cũng chẳng bao giờ là bằng phẳng bởi con người luôn bị lôi kéo, mê hoặc bởi những ảo ảnh và những ánh sáng chất đầy sự giả dối lôi kéo và nhấn chìm con người ngày càng sâu trong bóng tối của cái ác. Con đường ấy thật dài, đó là con đường của thử thách, con đường mang tính thực nghiệm, con đường nhận ra thiện ác trong thực nghiệm mà nếu cắt ngắn hoặc giảm nhẹ, con đường ấy ắt sẽ là hạn chế hoặc tước đoạt tự do đích thực của con người.[6]
Điều này được thấy rất rõ trong hình tượng các nhân vật mà ông xây dựng, con người với số phận luôn phải dày vò và chon lựa, để rồi luôn phải đau khổ trong thân phận của mình trong cuộc tìm kiếm ý nghĩa và chân lý đích thực: trong Tội ác và Trừng phạt, hình tượng một Raxkonicov phải trải qua những dày vò lương tâm đến mức có những lức tưởng chừng phát điên vì sự trừng phạt của lương tâm sau khi gây tội ác. Nhưng cuối cùng đã bị khuất phục và có thể đạt tới sự bình an đích thực: “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho anh một cuộc sống (và biết đâu đấy, tất cả những chuyện đó sẽ tiêu tan như mây khói trong lòng anh, không để lại một chút gì). Ấy bây giờ anh chuyển thành một loại người khác, thì đã sao? […] Anh sẽ trở thành một mặt trời, rồi mọi người sẽ trông thấy anh. Muốn làm mặt trời thì trước hết phải là mặt trời.”[7] Đó chính là lời thú nhận của chàng trước Xonia, cô gái nhỏ bé, yếu đuối, đã phải bán mình để nuôi gia đình, nhưng có một trái tim lớn, đầy dũng cảm. Với niềm tin và một tình yêu chân thành, nàng sẵn sàng giẫm lên vũng bùn nhơ nhớp của tội lỗi, đau khổ để đạt tới tự do, thậm chí thành người giúp Raxkonicov tìm lại chính mình.
Cũng vậy, trong Anh em nhà Karamazov, hình ảnh Ivan Karamazov, trong cơn điên loạn của mình, có những lúc nhân danh tự do để phủ nhận tất cả, nhưng cũng phải trải qua đêm tối của nỗi dày vò tận sâu thẳm tâm hồn để giải thoát chính mình. Cuối cùng chính chàng phải thốt lên: “Vậy là tôi chấp nhận có Chúa Trời, chẳng những là sẵn lòng chấp nhận, mà còn chấp nhận cả sự an minh và mục đích của Ngài mà chúng ta hoàn toàn không biết được, tôi tin vào trật tự, vào ý nghĩa của cuộc sống, tôi tin vào sự hài hòa vĩnh cửu mà một ngày ba chúng ta sẽ hòa nhập cả lại mà tạo nên, tôi tin vào Lời, tất cả vũ trụ hướng về Lời…”[8]
Triết gia N. Berdyaev đã phân tích rất hay về con đường đi đến Chân Lý của con người theo quan niệm của Dostoevsky. Trong đó, hình tượng con người đứng vững nhờ bản chất cao cả hơn chính bản thân nó, khi mà tự do của con người đạt được sự triệt để của mình trong tự do cao cả hơn, ở trong tự do nơi Chân Lý. Chỉ còn lại việc phục hồi cái tự do trong Chân Lý, tức là trong Đức Ki-tô, vốn trước kia đã bị hủy hoại. Thế nhưng Đức Ki-tô không phải là pháp luật bên ngoài, không phải chế độ bên ngoài của cuộc sống. Vương quốc của Ngài là bất khả ước với cõi trần gian này. Dostoevsky đã phẫn nộ vạch trần tất cả những khuynh hướng lệch lạc biến Ki-tô giáo thành tôn giáo của cưỡng bức và bạo lực. Đức Ki-tô chính là tự do cuối cùng mà con người hướng tới, không phải cái tự do nổi loạn tự khép lại trong bản thân mình, vốn là cái tự do hủy diệt con người, hủy hoại hình tượng của nó, mà là cái tự do có nội dung vốn khẳng định con người trong vĩnh hằng.[9]
Theo đó, số phận của Raxkonicov và Ivan Karamazov phải chứng minh Chân Lý ấy. Cái tự do định hướng sai lầm đã hủy diệt họ, nhưng điều này không có nghĩa là kìm hãm họ trong cưỡng bức thuần túy của pháp luật điều chỉnh từ bên ngoài, nhưng ngay trong chính nội tâm, nơi lương tâm luôn cồn cào và vò xé, kết án họ. Sự tiêu vong của họ mang lại ánh sáng cho chúng ta, bi kịch của họ là bài ca tự do, bởi qua họ, tự do đích thực được khẳng định trong chính đau khổ tột cùng của kiếp nhân sinh. Việc triển khai đề tài tự do đạt tới đỉnh cao trong Anh em nhà Karamazov, nơi thói tự tung tự tác và cuộc nổi lọan của Ivan là đỉnh cao của những kiểu cách tự do không ân huệ của con người với thứ tự do tiêu hủy bản thân mình và dẫn đến phủ nhận ý nghĩa cuộc đời, phủ nhận Chân Lý.[10]
Tắt một lời, tự do trong thế giới quan của Dostoevsky là một đề tài trung tâm và nền tảng cho mọi đề tài khác xoay quanh con người và số phận của nó. Nếu không có tự do, lỗi lầm và tội ác, nếu không có sự thử thách tự do, thì sự hài hòa thế gian không thể được chấp nhận. Tự do của con người phải đi trước trật tự và sự hài hòa ấy. Con đường đi đến trật tự và sự hài hòa, đi đến sự kết nối nhân loại phải đi qua tự do, bởi không có tự do, sự hiện hữu của con người là vô giá trị. Những kẻ đi theo những con đường tự tung tự tác và tự khẳng định mình, những kẻ hướng tự do của mình nhằm chống lại Thiên Chúa sẽ không thể giữ được tự do, trái lại sẽ giẫm đạp và tiêu hủy tự do. Tự do sẽ mang lại giá trị đích thực cho hữu thể người và kiếp nhân sinh khi những Raxkonikcov hay Ivan Karamazov phải trải qua lò lửa to lớn của những mối hoài nghi nơi chính chiều sâu tinh thần của mình, để từ lương tâm tự do của họ phải vang lên những lời của Phê-rô: “Ông là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Dostoevsky đã để họ trải qua những thử thách, những vò xé và đau khổ tột cùng để cuối cùng đạt tới được tự do đích thực nơi chính Đức Ki-tô. Vậy, sau khi tìm hiểu khái quát về con người và tự do trong thế giới quan của Dostoevsky, ta phải hiểu tương quan giữa cái ác với tự do, với con người và với Thiên Chúa trong thế giới quan của ông như thế nào?
[1] Cf. Ibid., tr. 110-111
[2] DOSTOEVSKY, Anh em nhà Karamazov, Nxb Văn Học, Hà Nội năm 2019, tr. 446
[3] Cf. N. BERDYAEV, Thế giới quan của Dostoevsky, Nxb Tri Thức, Hà Nội năm 2017, tr. 119-122
[4] Cf. Ibid., tr. 111-112
[5] Cf. Ibid., tr. 119-122
[6] Cf. Ibid., tr. 115-116
[7] DOSTOEVSKY, Tội ác và Trừng phạt, Nxb Văn Học, Hà Nội năm 2020, tr. 604
[8] Idem, Anh em nhà Karamazov, Nxb Văn Học, Hà Nội năm 2019, tr. 313
[9] Cf. N. BERDYAEV, Thế giới quan của Dostoevsky, Nxb Tri Thức, Hà Nội năm 2017, tr. 122-123