Rượu mới Kitô cho con người trong thế giới hôm nay
Chủ nhật - 24/08/2025 10:38
15
Chúng ta đang sống trong một thế giới phân cực, một xã hội phân hóa và một nhân loại phân tán với những cá nhân bị phân mảnh bởi chủ nghĩa cá nhân. Thực tế cho thấy, thế giới ngày càng trở nên phức tạp, nhiễu nhương, bấp bênh với những biến chuyển không ngừng trong mọi vấn đề và mọi khía cạnh đời sống. Điều này không quá khó hiểu! Bởi là hữu thể biết suy tư, nhưng bất tất, con người chưa bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có và đã đạt được. Trái lại, khát vọng hiện hữu tròn đầy hơn, hoàn bị hơn đẩy bước con người không ngừng vươn lên để hoàn thiện bản thân, khai thác, chinh phục, làm chủ thiên nhiên, sáng tạo, phát triển kĩ nghệ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, từng bước hiện thực hóa giấc mơ xây dựng những ”thiên đường tại thế”. Tất cả những thành tựu, những phát minh đáng nể và không thể phủ nhận trong mọi lãnh vực, cách nào đó, đã và đang từng bước giúp con người cải tiến xã hội, cải thiện mức sống, tạo ra những không gian văn minh để có thể sống trong những cảnh huống đầy hy vọng, thậm chí ảo tưởng về một thế giới đại đồng, tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc như “thiên đường”. Tuy nhiên, khi nhiều người tưởng như đã tiệm cận “giấc mơ tự do tuyệt đối trong một thế giới tuyệt đối tự do” sau khi đã làm tất cả để hiện thực hóa tham vọng bá chủ, bất chấp mọi quy chuẩn, thì cũng như hai mặt một đồng tiền, con người giật mình nhận ra những thiên đường tại thế chỉ là những “thiên đường mù”[1], hòa bình xây dựng bằng bạo lực chỉ là thứ hòa bình giả tạo, và hạnh phúc đến từ những thực tại vật chất chỉ là một thứ hạnh phúc tức thời tựa bong bóng vỡ tan ngay khi giơ tay chạm tới.
Quả vậy, thay vì xây dựng nền hòa bình - tự do - hạnh phúc đích thực theo tinh thần Tin Mừng và nhân bản Ki-tô giáo, thì thay vào đó:“chiến tranh là hòa bình, tự do là nô lệ, ngu dốt là sức mạnh”,[2] bởi trong mớ bòng bong của sự bình đẳng giả tạo ấy, khi có vẻ mọi con vật đều bình đẳng, thì thật lạ, lại xuất hiện một số con vật bình đẳng hơn.[3] Trong mớ bòng bong hỗn mang ấy, sự tự do tự tung tự tác song hành cùng lòng ham muốn quyền lực, và hưởng thụ vô độ của một số người, tất yếu đẩy nhân loại vào những cảnh huống tràn ngập bất công, đau khổ, chết chóc, thậm chí nguy cơ diệt vong dường như luôn chực chờ để nuốt chửng nhân loại. Thực tế cho thấy, bức tranh toàn cảnh thế giới và nhân loại trong lịch sử luôn đan xen những mảng sáng tối, đôi khi trộn lẫn với nhau. Theo đó, bên cạnh những góc tươi sáng của một bộ phận người giàu đề huề, thỏa thuê, tự huyễn hoặc trong mớ bình yên giả tạo, lại là vô số mảng tối, mà nơi đó, bao phận người đang phải quằn quại bởi đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, thất vọng; thậm chí ngay những người giàu có, quyền lực, thành công cũng không thoát khỏi nỗi ám ảnh của sự bất an, sợ hãi và cái chết. Không dừng lại ở đó, hạnh phúc của một số người thuộc giới tinh hoa được đánh đổi không chỉ bằng sự giẫm đạp vô cảm trên những tiếng kêu của con người thấp cổ bé họng, nhưng còn trên sự quằn quại, rên xiết của trái đất, của môi sinh vì bị khai thác và bóc lột và khai thác tàn tạ… Tất cả những thực tại đáng sợ đó khiến nhiều người có lương tri vỡ mộng và nhận ra sự thật trần trụi, mong manh về chính mình và về nhân loại này.
Nhưng đắng đót thay, bóng tối của cái ác như thể đang chiếm thế thượng phong khi từng bước dung túng và làm chết ngộp ánh sáng của niềm tin yêu và hy vọng. Chiến tranh, bạo lực, tội ác, những tệ nạn, bệnh dịch, tình trạng di dân, thất nghiệp, ô nhiễm, thiên tai… những hệ quả tất yếu của của tham vọng được xây dựng trên tính ích kỉ và sự kiêu ngạo luôn đẩy con người vào vòng xoáy quay cuồng của sợ hãi, bởi sự bấp bênh kéo theo nỗi băn khoăn về thân phận con người và ý nghĩa của sự hiện hữu. Những thực tại đầy bi quan và những đau khổ tràn ngập tạo nên bầu khí đầy u ám, nhiều bất an, sợ hãi bủa vây sự hiện hữu của con người. Trong bối cảnh đầy nhiễu nhương và khó đoán như hiện nay, nhiều người phản tỉnh và đặt câu hỏi về nguyên nhân khiến nhân loại, dù cố gắng vẫn luôn phải sống trong cảnh mong manh và bấp bênh như vậy?
Lật giở Kinh Thánh, chúng ta phần nào tìm ra câu trả lời cho nỗi đau đáu về tình trạng bi đát mà con người đang phải đối diện. Quả thế, ngay những trang đầu Sáng Thế Ký, Kinh Thánh đã mặc khải cho chúng ta bức tranh đầy thơ mộng, tuyệt đẹp, bình yên và hạnh phúc đích thực, nơi con người không cần sống mặt nạ với nhau và với Thiên Chúa hay với mọi thụ tạo (x. St 2, 4-25). Trong sự an nhiên, con người hằng ngày được hàn huyên với Thiên Chúa, hòa hợp với thiên nhiên, với mọi thụ tạo, với nhau và với chính mình. Cảnh quan Vườn Địa Đàng và mối hiệp thông của con người trong các mối tương quan quả thật là giấc mơ của con người mọi thời, mà lẽ ra giấc mơ đó đã không bao giờ trở thành một giấc mơ, nếu không có một thực tại xâm lấn và làm đứt gãy, phá hủy tất cả, đó là tội lỗi. Quả vậy, khi con người vẽ ra một tương lai xán lạn, đầy tự do trong kế hoạch của Thiên Chúa, thì cùng lúc, sự tự do, món quà vô giá mà Thiên Chúa liều lĩnh ban tặng đã bị lạm dụng một cách thê thảm và đẩy con người vào bi kịch. Hậu quả là từ sự khước từ đầu tiên, khi con người lạm dụng tự do, nghe theo ma quỷ xúi giục, chống lại Thiên Chúa, mở đường cho tội lỗi xâm lấn làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa nơi mình (St 3). Từ ngày đó, tội lỗi xâm nhập thế gian, kéo theo sự đứt gãy tất cả các mối tương quan, khiến cuộc sống vốn dư tràn hạnh phúc, bỗng chốc rơi vào tình trạng “thiếu và hết”. Thảm cảnh ấy dẫn tới việc con người phải sống trong bất an, bởi bạo lực, tội ác, đau khổ, nhất là cái chết, kể từ tội ác đầu tiên của Cain (St 4, 1-16). Từ đó, dù nỗ lực, dù cố gắng tái dựng ước mơ địa đàng, nhưng càng cố gắng, nỗ lực bao nhiêu, thì sự kiêu ngạo thâm căn cố đế, sư ích kỉ và thiếu vị tha càng khiến con người lìa xa Thiên Chúa, xung khắc thiên nhiên và chia rẽ, chống lại nhau. Và như một hệ quả tất yếu, bạo lực, chiến tranh, tội ác, bất công… luôn là những thực tại, những vấn đề nan giải mà càng cố giải quyết, thật nghịch lý, con người càng đẩy chính mình vào vòng lặp tội ác đáng sợ hơn khiến giấc mơ địa đàng mãi là giấc mơ chưa tròn.
Dẫu vậy, Thiên Chúa không bỏ mặc con người phải hư mất, bởi Ngài luôn trung tín và mãi yêu thụ tạo mà Ngài đã vất vả dựng nên theo hình ảnh của mình (St 1, 27). Ngài vẫn yêu, vẫn kiên nhẫn và cách tiệm tiến thực hiện công trình cứu độ nhiệm lạ, hầu dẫn đưa con người trở lại vườn Địa Đàng để tiếp tục viết tiếp câu chuyện tình tuyệt đẹp thuở ban đầu. Từ lời hứa cứu độ thuở ban đầu (St 3,15), Thiên Chúa từng bước lập giao ước với con người, cách đặc biệt nơi Dân Riêng của Ngài. Để rồi, khi thời gian tới hồi viên mãn (Gl 4, 4-7), khi mà thứ rượu cũ và bầu cũ là Luật Mô-sê và Do Thái giáo đến lúc cần được kiện toàn và phải thay thế, thì Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể “làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14), sống như con người và ở giữa con người, chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại để hoàn tất chương trình cứu độ của Chúa Cha. Từ đó, Đức Ki-tô và Giáo hội của Ngài trở thành bầu mới rượu mới, phục hồi và làm tràn đầy tình trạng “thiếu và hết của nhân loại”, khai mở một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên cứu độ cho những ai tin và đón nhận Tin Mừng.
Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tuyệt đối món quà Ngài đã liều lĩnh ban cho con người, đó là tự do. Để rồi dù đã thông ban ơn cứu độ nơi cách trọn hảo nhờ công nghiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô chịu chết và phục sinh, Thiên Chúa, qua Hội Thánh của Ngài tiếp tục kiên nhẫn và mời gọi mọi người tin và trở lại để đón nhận ơn cứu độ cho tới khi Đức Ki-tô quang lâm (Gc 5, 7-8). Vậy mà bầu mới, rượu mới mà Đức Ki-tô mang tới cho nhân loại dù đã hai ngàn năm, dường như vẫn là một thứ rượu nhạt nhẽo, thiếu hấp dẫn, không đủ ngon để cho con người vui thỏa. Thực tế cho thấy, bên cạnh bao tâm hồn nhạy bén, khát khao đã đón nhận thứ rượu mới Ki-tô trong bầu mới Giáo hội, thì vẫn còn đó những tâm hồn khước từ, thậm chí giục bỏ, chà đạp, tiếp tục sống với thứ rượu cũ và bầu cũ. Với sự tự do, họ tặc lưỡi chấp nhận sống trong một bầu cũ để tiếp tục thưởng thức thứ rượu cũ mèm, nhưng lại có sức mạnh kì lạ khiến họ bị ảo giác và chìm đắm trong men say của những thú vui giả tạo mà hệ quả là đau khổ, bất an và sự chết vẫn tràn lan.
Lột tả phần nào bức tranh khá u ám, ảm đạm về thế giới và con người ngày nay hẳn nhiên không phải để dấy lên sự bi quan hay thất vọng, để rồi chúng ta bị nuốt chửng bởi sợ hãi, tuyệt vọng, bởi trong cảnh tối tăm luôn bừng lên một ánh sáng huy hoàng chiếu rọi (x. Mt 4, 16). Đó là ánh sáng của niềm tin, tình yêu và hy vọng vẫn nhen nhúm như men trong bột dậy lên mỗi ngày dù âm thầm nhưng rất mãnh liệt. Thật thế, dù sống trong bất cứ cảnh huống nào, éo le hay thừa mứa, thì nơi sâu thẳm, con người vẫn day dứt niềm khao khát một thực tại vượt tầm lý trí và mong đạt tới một thứ hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu ngay giữa mớ bong bóng giả tạo chóng qua. Nhờ ánh sáng đó, con người không bao giờ bỏ cuộc hay buông xuôi, để rồi chết ngộp trong những thực tại đáng sợ luôn rình rập và đe dọa sự hiện hữu của mình, nhưng không ngừng vươn lên, không ngừng phản tỉnh để nhận ra tình trạng thiếu và hết một thứ gì đó nơi mình. Từ đó, nhiều tâm hồn khiêm tốn từng bước đón nhận Rượu mới Ki-tô, thứ rượu đích thực và duy nhất có thể mang lại bình an và hạnh phúc viên mãn.
[1] Tên một tác phẩm của nhà văn Dương Thu Hương
[2] George Orwell, 1984, Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb. Vô Danh, tr. 53
[3] Cf. IDEM, Trại súc vật, Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb. Kiến Tạo, tr. 187