Thoáng nhìn "Chân Lý" dưới ánh sáng thông điệp Đức tin và Lý trí
Thứ ba - 30/09/2025 05:16
16
“Mọi người đều khát vọng hiểu biết” (Aristote), và đối tượng của khát vọng đó là chân lý.[1] Là một hữu thể biết suy tư và ham hiểu biết, con người không ngừng truy tìm chân lý về thế giới, về chính mình và nhất là Chân Lý siêu việt luôn làm day dứt tận sâu thẳm tâm hồn con người. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một giai đoạn mà cơn khủng hoảng về về chân lý luôn rình rập, đe dọa, thậm chí chực nuốt chửng và nhấn chìm khát vọng chân lý của chúng ta. Thật vậy, trong một thế giới bùng nổ về kĩ nghệ như hiện nay, chủ nghĩa tương đối, dường như lại rất phù hợp với não trạng của con người thời đại hôm nay, như thể đang làm chốc rễ ngay cả những chân lý khách quan, tưởng như không thể thay đổi: sự sống, tình yêu, luân lý, thậm chí cả niềm tin và Thiên Chúa… Trong một bầu khí như vậy, những đám sương mù che khuất tầm nhìn và ngăn bước chúng ta đạt tới Chân lý tối hậu và vĩnh cửu càng trở nên dày đặc. Chính vì thế, để phá tan đám sương mù đang ngăn bước chúng ta đạt tới Chân Lý, người viết thiết tưởng cần cùng nhau lược lại tư tưởng về chân lý của Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II trong Thông điệp đức tin và lý trí của ngài. Qua đó, với lý trí và đức tin, chúng ta khám phá và đón nhận được Chân Lý trọn vẹn, Chân Lý có khả năng giải thoát và đem lại hạnh phúc đích thực cho sự hiện hữu của chúng ta. Đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là Chân Lý, là Sự Thật.
Như chúng ta biết, khởi đầu, chân lý đến với con người dưới dạng một câu hỏi: Cuộc đời có ý nghĩa không? Nó đi về đâu? Từ những câu hỏi căn bản ấy, con người dò bước tìm kiếm câu trả lời bởi vì mỗi người chúng ta muốn, – và phải muốn – biết sự thật về cùng đích của mình.[2] Trong thông điệp của mình, Thánh Giáo hoàng khẳng định: “Cả triết gia cũng như người bình dân, không ai có thể tránh né những câu hỏi ấy. Giai đoạn quyết định của việc nghiên cứu lệ thuộc vào lời giải đáp những câu hỏi ấy: có thể đạt tới một chân lý phổ quát và tuyệt đối chăng? Mọi chân lý, dẫu chưa đầy đủ, nếu thật là chân lý, thì nguyên nó vẫn là chân lý phổ quát. Điều là thật thì phải thật đối với mọi người và mọi nơi. Nhưng ngoài tính phổ quát ấy, con người còn tìm kiếm điều tuyệt đối khả dĩ cung cấp câu trả lời và ý nghĩa cho mọi nghiên cứu của mình: một điều gì tối hậu, như nền tảng cho mọi vật. Nói cách khác, con người tìm một giải thích dứt khoát, một giá trị tuyệt đối, kỳ dư không có và không thể có câu hỏi hoặc những tham chiếu nào nữa. Những giả thuyết có thể làm say mê, nhưng không thỏa mãn. Đối với mọi người, muốn hay không muốn, sẽ đến một giây phút phải neo cuộc đời của mình vào một chân lý, được nhìn nhận như dứt khoát, cung cấp một sự chắc chắn không còn phải hoài nghi nữa…Trong mỗi một biểu hiện ấy, điều luôn luôn linh động là khát vọng đạt tới sự chắc chắn của chân lý và của giá trị tuyệt đối.”[3]
Cũng trong Thông điệp, khi nói về mối liên hệ tương hỗ giữa đức tin và lý trí trong hành trình đi tìm chân lý, Thánh Giáo hoàng khẳng định có một con đường mà con người có thể theo nếu họ muốn, đó là lý trí tự nhiên. Theo đó, lý trí có khả năng nhắc mình lên trên những điều bất tất để vươn tới điều vô hạn.[4] Tuy nhiên, đôi khi hay nhiều lúc, hành trình ấy lại bị những đám sương mù của lịch sử, với sự giới hạn của lý trí che khuất, cản lối hoặc đánh lạc hướng. Do đó, cần phải có một con đường khác, cùng với lý trí giúp con người có thể vượt qua đám sương mù của sự bất tất để đạt tới chân lý đích thực, đó là đức tin, nhờ mạc khải của Thiên Chúa. Do đó, thật hữu lý Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II đã mở đầu Thông điệp của mình bằng một lời khẳng định đầy xác tín và sâu sắc: “Đức tin và Lý trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý. Thiên Chúa đã in vào tâm khảm con người khát vọng nhận biết chân lý, và sau cùng để nhận biết chính Người, ngõ hầu khi đã biết và yêu mến Người thì con người cũng nhận biết chân lý đầy đủ về chính mình”. Thật vậy, do bản tính, con người tìm kiếm chân lý. Cho nên chúng ta có thể định nghĩa con người là kẻ đi tìm chân lý.[5] Sự tìm kiếm này không có mục đích chinh phục những chân lý vụn vặt, có thể quan sát, hay là khoa học; con người không những tìm kiến điều thiện chân thực đối với mỗi quyết định của mình. Sự tìm kiếm của con người vươn tới chân lý cao hơn, khả dĩ giải thích ý nghĩa cuộc đời; cho nên là một tìm kiếm chỉ có thể kết thúc ở chỗ tuyệt đối. Nhờ khả năng cố hữu của tư tưởng, con người có thể gặp thấy và nhận ra chân lý ấy. Vì là điều sinh tử và cốt thiết cho cuộc sống, chân lý ấy được đạt tới không những bằng con đường lý luận, nhưng còn do sư tín thác vào những người khác, những người có thể bảo đảm sự chắc chắn và chân thực của chính chân lý. Khả năng và việc lựa chọn tín thác chính bản thân và cuộc đời vào một người khác quả cấu tạo nên một trong những hành vi ý nghĩa nhất và rõ rệt nhất về nhân loại học.[6]
Trong chiều hướng đó, sau khi phác họa ba hình thức của chân lý là chân lý tự nhiên, chân lý triết lý và chân lý tôn giáo[7], thánh Giáo hoàng đi tới kết luận rằng Chân lý của Mặc khải Kitô giáo, mà ta thấy nơi Đức Kitô Nazareth, cho phép bất cứ ai cũng đón nhận được “mầu nhiệm” cuộc đời mình chính là chân lý tối thượng mà con người tìm kiếm, có thể cung cấp sự chắc chắn không còn phải hoài nghi. Nó bó buộc con người phải cởi mở đối với siêu việt, đang khi tôn trọng quyền tự quyết và sự tự do của thụ tạo. Ở đây, tương quan giữa tự do và chân lý trở thành tuyệt vời, và ta dễ hiểu lời Chúa phán: “Anh em sẽ nhận biết chân lý, và chân lý sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32).[8]
Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một không gian lịch sử, trong đó cơn cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa đã trở nên rất mạnh. Văn minh kĩ thuật và mức sống phồn thịnh đưa ta tới khẳng định là mọi chuyện có thể tự tay ta làm được… Như vậy, vấn đề về Thiên Chúa hay Chân Lý tối hậu chẳng cần đặt ra nữa.[9] Hệ quả là nhiều người bị rơi vào cơn khủng hoảng về chân lý, bởi không còn đặt nền tảng ý nghĩa cuộc đời trên một Chân Lý tối hậu, nhưng đặt trên những giá trị tương đối, phù phiếm và chóng qua. Để rồi, không ít người trở thành những Phi-la-tô của thời đại mới với câu hỏi ngờ nghệch “Chân lý là gì?” (x. Ga 18, 38). Đứng trước thực trạng đó, Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II đã đưa ra nguyên nhân của thực trạng này. Theo ngài, bản tính có giới hạn của lý trí và sự thiếu kiên trì của trái tim làm lu mờ, và thường làm lệch hướng việc nghiên cứu cá nhân. Những bận tâm về những lãnh vực khác có thể bóp nghẹt chân lý. Cũng có khi người ta tránh né chân lý một cách tuyệt đối, vì sợ những đòi hỏi của nó.[10] Dẫu vậy, do những điều trên đây, ta thấy, con người dấn thân trong con đường nghiên cứu, nói một cách nhân loại, không bao giờ cùng: tìm kiếm chân lý và tìm kiếm một ngôi vị mà mình tín thác. Đức tin Kitô giáo đến trợ giúp họ bằng cách cung cấp khả năng cụ thể để nhận ra chỗ thành đạt của việc tìm kiếm này. Quả thực, khi vượt qua giai đoạn tin tưởng suông, nó dẫn đưa con người vào lãnh vực ân sủng giúp nó thông dự mầu nhiệm của Chúa Kitô, trong đó nó được cung cấp một sự nhận thức chân thực và mạch lạc về Thiên Chúa nhất thể tam vị. Như vậy, trong Chúa Kitô, là Chân lý, đức tin nhận ra lời mời gọi sau cùng gửi cho nhân loại, để nhân loại có thể chu toàn điều mà nó cảm thấy như một mong ước và như nỗi nhớ nhung…[11]
Tắt một lời, theo Thánh Giáo hoàng, cả khi người ta tránh né chân lý, thì chính chân lý vẫn ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân sinh. Quả thực, không bao giờ con người có thể xây dựng cuộc đời trên sự hoài nghi, trên sự bấp bênh hay trên sự dối dá; cuộc đời đó sẽ liên lỉ bị đe dọa bởi sợ hãi và lo âu.[12] Do đó, mặc khải Kitô giáo là ngôi sao đích thực giúp con người biết định hướng trong khi tiến bước giữa những áp lực của não trạng duy tâm và những gò bó của óc kỹ thuật; nó là khả năng sau cùng Thiên Chúa cung cấp cho nhân loại để tìm lại tình yêu sung mãn, đã được bắt đầu khi tạo thành. Đối với con người muốn biết chân lý, nếu còn có thể nhìn lên trên chính mình, và trên những kế hoạch của mình, thì còn được cung cấp khả năng để tìm lại mối liên hệ đích thực với cuộc đời, bằng cách theo con đường chân lý… Đúng như nhà đại thần học Augustin nói: “Đừng ra ngoài, hãy vào chính mình. Chân lý ở trong chính con người”.[13]
Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II, Thông điệp Đức tin và lý trí, số 25
Joshep Ratzinger, Thiên Chúa và Trần gian, Phạm Hồng Lam chuyển ngữ, NXB. Tôn giáo, tr. 24
Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II, Thông điệp Đức tin và lý trí, số 28