Mười điểm cho chất lượng có "Nhưng"
Thứ sáu - 12/09/2025 23:56
51
Những ngày gần đây, cư dân mạng Công giáo khắp Việt Nam, đặc biệt tại Bùi Chu xôn xao truyền nhau những tin tức, hình ảnh có thể nói trăm năm có một của một tân linh mục 72 tuổi – cha Vinhsơn Nhưng. Từ một người tưởng như sẽ sống đời Phó tế vĩnh viễn với hai tiếng “thầy cố”, bỗng chốc, như một giấc mơ, trở thành “cha mới – cha cố”, một người nổi tiếng bất đắc dĩ, khi Chúa thương, qua Đức cha Giáo phận chọn gọi và đặt tay truyền chức ở cái tuổi có lẽ đã sẵn sàng cho việc về hưu và về với Chúa. Rất nhiều bài viết, video, nhiều hình ảnh, nhiều thông tin về việc “thầy cố Nhưng” được truyền chức linh mục và dâng Thánh lễ tạ ơn được lan truyền rộng khắp tạo thành một làn sóng lan khắp các xứ đạo Bùi Chu, cũng như vượt ranh giới Giáo phận nhờ các nền tảng mạng xã hội như facebook, tiktok hay youtube với nhiều lượt chia sẻ và comment. Trong đó, hầu hết là những cái nhìn nể phục, kính trọng, với nhiều bài viết, nhiều lời bình luận tạ ơn, ca tụng, chúc mừng, tự hào, nhưng cũng còn đó một vài comment, hay những bàn luận không được tích cực, thiện ý cho lắm. Dẫu sao, đây quả là một sự kiện gây chấn động và viral. Nhưng nhìn theo nhãn quan đức tin và trong chương trình của Chúa, thì đó chẳng phải là ngẫu nhiên, nhưng là một huyền nhiệm, một hồng ân cao cả, một phép lạ của ơn gọi không tuổi, đáng tự hào, và cũng là nguồn khích lệ về sự kiên trì và trung tín cho nhiều thế hệ đang tiếp bước con đường dâng hiến như một lời khẳng định theo Chúa thì không tính tuổi, hay đi tu là tu cả đời quả thật đã và đang ứng nghiệm trên cuộc đời vị tân linh mục đặc biệt này… Có thể nói rằng sau bao lần truyền chức “10 điểm cho chất lượng ‘không có Nhưng’”, thì cuối cùng, “10 điểm cho chất lượng ‘đã có Nhưng’”.

Cuộc đời hay ơn gọi của mỗi người là một cuốn sách mà chính chúng ta viết lên mỗi ngày, và chắc chắn cuộc đời và ơn gọi của cha mới Vinh sơn cũng là một cuốn sách. Nhưng cuốn sách cuộc đời cha là một cuốn sách đặc biệt, không chỉ dài và dày, một cuốn sách tưởng như sẽ có một cái kết không được trọn vẹn, nhưng cuối cùng lại được chính Thiên Chúa ghé mắt nhìn và làm cho nên tròn đầy trong hồng ân thánh hiến mà cha đã chọn và cả đời bước theo.
Là một người nhà, một người cháu, ngay từ khi còn rất nhỏ, tôi đã được bố mẹ, anh chị kể rất nhiều về một người chú đi tu. Dù chưa gặp mặt, nhưng hồi ấy với tôi, hình ảnh “chú Nhưng” hay “thầy Nhưng” đã là một hình mẫu gì đó rất đáng ngưỡng mộ, thậm chí cứ mong ngóng ngày nào dịp nào chú về quê sẽ được gặp mặt, nói chuyện xem chú là ai và thầy đi tu thì như thế nào, có gì khác không. Thế rồi, sau một vài lần chắc có lẽ chỉ nhìn thấy từ xa, được nghe một vài bài giảng với cung giọng hùng hồn, hình như tôi cũng được gặp, dù chỉ qua loa, chớp nhoáng, bởi hồi đó có ít cha, ít thầy, lại còn nhỏ và việc thông tin còn hạn chế. Dù vậy, hình ảnh và những ấn tượng về một ông chú đi tu thời đó thực sự là cái gì đó rất lạ, rất thu hút, đáng kính trọng và ước ao. Và rồi, thời gian đẩy bước tôi lớn lên, nhưng đồng thời cũng đưa người chú ấy dần bước qua ngưỡng cửa của tuổi thanh xuân, tuổi sung sức, dù vẫn nhiệt tâm trong sứ vụ Phó tế, nhưng có lẽ đâu đó nơi thâm tâm vẫn là sự vò võ chờ đợi được gọi lên chức thánh linh mục. Sau một vài lần tưởng như lý tưởng linh mục sắp thành hiện thực, thì giấc mơ ấy lại tan biến, phần do thời cuộc hay nhiều nguyên nhân khác. Để rồi, cuối cùng dường như chú đã phần nào chấp nhận an phận trong chức Phó tế vĩnh viễn khi sau thời gian dài phục vụ tại các giáo xứ, chú được Đức cha gọi về Chủng viện, rồi tới bến đỗ có lẽ cuối cùng trước khi đi hưu là Tòa Giám mục (TGM).
Chắc hẳn rất nhiều ông trùm, bà quản, hay bao lớp thiếu nhi, ơn gọi… từng được chung sống, làm việc, hay tiếp xúc ở môi trường giáo xứ với “thầy Nhưng” hẳn không quên hình ảnh một người nghiêm nghị, thẳng thắn, nhưng nóng tính, không sợ va chạm kể cả với chính quyền, dù thầy xuất thân là một quân nhân ưu tú. Nhưng nơi ông thầy phó tế lão làng ấy, có lẽ nhiều người đều chân nhận “thầy Nhưng” là một người hết mình vì công cuộc giáo lý, đức tin, luôn sẵn sàng bảo vệ chính kiến, sống liêm khiết, hết mình phục vụ Chúa và Giáo hội. Nhưng những hình ảnh đó, những kí ức đó với tôi vẫn chỉ là những câu chuyện được kể lại qua người khác mà thôi để rồi xoay quanh con người ấy là cả những lời khen, tiếng chê, thậm chí sự dè bỉu và đôi khi là thái độ khinh thường không hề nhẹ… Đó là hệ quả tất yếu của sự nhiệt tâm, mà có lẽ bất cứ ai đều sẽ trải qua trong hành trình đức tin cũng như hành trình tận hiến của mình vì Chúa, vì Giáo hội cũng như vì phần rỗi các linh hồn.
Nhưng những hình ảnh, những kí ức nơi TGM, khi ông thầy già, sau bao năm lăn lộn, tung hoành khắp giáo phận, trở về TGM như để ở ẩn và đợi ngày về hưu, thì những hình ảnh về một thầy Phó tế già nơi TGM mỗi ngày lại trở nên đậm nét và thân thương. Tại đây, những ai đã từng giúp tại TGM, có thời gian ở cùng, làm việc cùng, hay ăn cơm cùng, uống nước cùng với “thầy cố Nhưng” sẽ không lạ lẫm với hình ảnh một ông già nghiêm nghị, chắc chắn, có chút cổ hủ nếu không nói là hơi khó nết, nhất là trong những vấn đề mà ông cụ đã nắm chắc và đã yên chí như Phụng vụ, Thánh nhạc, Giáo lý hay các vấn đề thời cuộc, lịch sử, xã hội... Cùng với đó, ắt hẳn nhắc đến thầy cố Nhưng, sẽ gợi lại trong tâm trí nhiều người những bước chân tập tễnh, cứ mấy bước lại thụt xuống cho thấy sự đuối sức với cái đầu gối đã có dấu hiệu hư hỏng, cùng đôi tay run run do căn bệnh Parkinson, những nét làm nên đặc trưng của “thầy Nhưng run”. Dẫu đã tuổi xế chiều, sức khỏe mỗi ngày một giảm sút với những cơn đau mà đôi khi “thầy cố” một mình chịu đựng trong thầm lặng, nhưng như một chiếc đồng hồ, một người giữ nhịp cho những sinh hoạt tại TGM, nhất là trong việc đạo đức qua các giờ kinh, giờ lễ, giờ chầu… trừ những ngày ốm không thể hiện diện. Cứ đều đặn, hằng ngày, cứ đến giờ, hình ảnh “thầy cố” nơi hàng ghế cuối nhà nguyện đã trở nên quá quen thuộc với nhiều thế hệ các thầy, các sơ, các chú từng giúp tại nơi đây… Đó cũng là mẫu gương về tinh thần đạo đức của một đời sống tu trì thực thụ mà đôi khi hay nhiều lúc, thế hệ trẻ khó mà theo được. Với người viết, cách riêng trong một năm giúp việc tại TGM, tôi như có dịp thuận tiện hơn để sống cùng, tiếp xúc, học hỏi nơi “người chú” mà từ bé đã rất kính trọng. Trong một năm ấy, bao kỉ niệm bên người chú già của mình không chỉ trong các công việc, nhưng còn xoay quanh những câu chuyện bàn cơm, bàn chè hay đi dạo, thậm chí cả những lần tranh luận nảy lửa của “thằng cháu phản chú”... Nhưng phía sâu nơi con người ấy quả thật là một lịch sử dày về một con người, một cuộc đời và một ơn gọi đáng nể, đáng kính trọng. Là một người dâng hiến, ắt hẳn lý tưởng linh mục luôn là điều mơ ước, nhưng với người chú ấy, trong 26 năm, cứ mỗi năm trôi qua là một lần giấc mơ ấy lại trở nên xa vời và chỉ là ước mơ mà thôi.
Khi ở cùng, ăn cùng và làm việc cùng, tôi mới thấy một tâm hồn rất lớn về ơn gọi. Người viết không phủ nhận nơi “thầy cố”, vẫn còn đó những thái độ tiêu cực về một số vấn đề xã hội, cũng như sự không hài lòng với nhiều đấng bậc, hay người nọ, người kia với những lời phê bình, góp ý gay gắt… Nhưng sau tất cả, nơi “thầy cố” vẫn là một sự trung tín, một tâm hồn trung thành tuyệt đối trong ơn gọi với Giáo hội và nhất là một sự vâng phục tuyệt vời với bề trên hay sự tôn trọng với các đấng bậc dù về tuổi đời, tuổi tu, “thầy cố” nhỉnh hơn rất nhiều. Khi ở cùng, khi nói chuyện, khi nhìn mới cảm nhận được sự hy sinh thực sự khó diễn tả của một con người đã dành trọn cuộc đời để tận hiến mà ước mơ mãi chẳng thành. Thật khó diễn tả cảm giác, mà có lẽ chỉ “thầy chú” mới trải nếm thực sự, đơn giản khi phải ngồi ăn ngày ba bữa với mấy thầy, mấy chú, đáng tuổi cháu, chắt... Quả thật sự khác biệt về tuổi tác, thế hệ, kéo theo khoảng cách mênh mông về lối suy nghĩ, về quan niệm hay não trạng, khiến nhiều câu chuyện bị lệch tông, thậm chí xung khắc, dù đôi khi sự khác biệt ấy là làm cho bàn cơm trở nên rôm rả và vui vẻ hơn, nhưng ai cũng hiểu thật khó để thích nghi, để chịu vậy ngần ấy năm. Chính vì thế, nhiều khi anh em phải cố gợi ra một chủ đề nào đó về các việc đạo đức, về Phụng vụ, về Thánh nhạc hay Giáo lý để “thầy cố” có thể tham gia được câu chuyện… Nếu ai đã từng giúp tại TGM thời Covid sẽ còn nhớ như in hình ảnh thầy cố Nhưng với chú chó tên Bông, rồi những câu chuyện thú vị, cười ra nước mắt xoay quanh chú chó đó, cho đến ngày thầy cố phải rớt nước mắt để chú chó ra đi, như cảnh “Lão Hạc tiễn chú chó vàng”. Cũng nơi không gian thân thương TGM và Chủng viện, nhiều người quá quen với hình ảnh một ông già những ngày đẹp giời với chiếc cần câu lạch cạch trên chiếc xe đạp, thư thái, run run bên bờ ao Học viện hay Chủng viện để giết thời gian và để ngẫm về cuộc đời, về ơn gọi, cũng như sự hiện diện của thầy cố nơi nọ, nơi kia trong các cuộc nói chuyện hay chia sẻ... Và sẽ còn nhiều lắm những hình ảnh của một thầy Phó tế già tận tụy với việc phục vụ bàn thờ nơi Chủng viện trước đó, hay nơi lớp Tiền Chủng viện mỗi tối Chúa nhật và nhất là tại ngôi nhà TGM…
Thời gian đúng là có vị riêng của nó, nhất là với những người có tuổi và kinh nghiệm, cách riêng là trong đời tu. 26 năm trôi qua chắc hẳn nhanh có, chậm có, vui có, buồn có, nhưng có lẽ cứ mỗi lần nhìn thấy bao thế hệ trẻ tiến bước lên chức linh mục, mà trong đó nhiều thế hệ là cháu, là em làm linh mục, rồi quản hạt, cha giáo, cha xứ, chắc chắn cùng với niềm vui, sự tự hào, là con người, không khỏi len lỏi nơi sâu tâm hồn thầy cố là sự tủi thân cùng với những tia hy vọng dù nhỏ dần. Cùng với đó, sự tự ti về sức khỏe của bản thân khiến cho sự tiếp xúc, hay đi lại nơi nọ nơi kia của ông thầy già quả là điều bất tiện… Không những thế, dù hầu hết mọi người đều trân trọng và nể phục thầy cố, nhưng chắc chắn còn đó những ánh mắt khinh thường, những lời nói, thái độ hay hành động đôi khi chỉ là vô ý, cùng cả sự coi thường thiếu tôn trọng từ người nọ, người kia chắc hẳn không khỏi làm cho thầy cố đôi khi hay nhiều lúc phải mủi lòng, tự ti và khép mình lại, với nhiều đêm mất ngủ vì nóng hay vì tủi thân, một mình trước Chúa suy nghĩ về đời, về người và về mình. Nếu đặt mình vào vị trí của thầy cố, có lẽ chẳng phải ai trong chúng ta cũng có thểđủ can đảm và nhẫn nại, đón nhận cách vui vẻ, nhất là trong một thời đại cái gì cũng hời hợt, thiếu kiên nhẫn, vội vàng và tốc độ cao.
Tuy nhiên, vượt lên mọi nỗi đau và sự mặc cảm ấy, với một lòng trung tín trong ơn gọi, với đời tu, và nhất là sự phó thác trọn vẹn trong bàn tay quan phòng của Chúa, sự bền đỗ và trung kiên trong ơn gọi của thầy cố Nhưng chắc chắn là điều ai cũng phải ngả mũ kính nể: vẫn nụ cười hiền hậu, vẫn ánh mắt đầy cương nghị và khôn ngoan, vẫn bàn tay run trong sự tận tụy và miệt mài trong mọi công việc, cùng những câu chuyện, những kinh nghiệm mục vụ sâu sắc… Những câu chuyện về cuộc đời, về thời cuộc, về lịch sử, nhất là về ơn gọi… mà thầy cố nhớ như in và kể lại trong tư cách là chứng nhân sống quả thực là những bài học đáng quý cho thế hệ trẻ, dù nhiều điều thời nay đã không còn hợp thời. Rồi sự chắc chắn, kĩ lưỡng, thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm trong các công việc, nhất là liên quan tới các mảng Thánh nhạc, Phụng vụ, nhất là Giáo lý quả là những kinh nghiệm đáng quý mà thế hệ trẻ cần học hỏi và trân trọng, dù đôi khi sự bảo thủ vẫn khiến người tiếp xúc không khỏi cảm thấy khó chịu…
Khi mà hầu hết mọi người và chính bản thân thầy cố tin rằng ơn gọi Phó tế sẽ là chạm dừng cuối cùng trong đời dâng hiến, khi mà những tia hy vọng cuối cùng dần ngủ yên trong sự an phận, thì cũng là lúc một phép lạ lớn xảy ra. Sau bao lần “giờ của thầy chưa đến” thì cuối cùng “giờ đã đến” (Ga 17,1), giờ mà Chúa ghé mắt nhìn và làm cho tia hy vọng dường như đã tắt lịm ấy bừng sáng trong đêm tối. Để rồi, cũng như thánh Phê-rô xưa, sau một đêm vất vả chẳng bắt được gì nhưng đã “vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Lc 5,5) thì nay cũng vậy, sau một cuộc đời dâng hiến vất vả, mà dường như không được thỏa ước nguyện, cũng như chẳng còn hy vọng gì cho chức linh mục, bỗng chốc giờ đã đến, Chúa cất tiếng gọi và thầy cố đã mau mắn đáp “vâng lời Thầy con cũng xin thả lưới” ở cái tuổi mà có thể nói đã khuất sau ánh đèn sân khấu cuộc đời, hay đời tu. Giờ ấy là giờ mà chính thầy cố tâm niệm, khi mặc lấy tâm tình của chính Đức Giê-su: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,3). Giờ này không phải để thầy cố được tôn vinh trong chức linh mục, nhưng là giờ để Thiên Chúa được tôn vinh qua tác vụ linh mục cao cả mà thầy cố được lãnh nhận và thực thi trong phần còn lại của cuộc đời và hành trình dâng hiến…
Người ta vẫn thường nói, đá cũng có ngày chảy mồ hôi. Đúng vậy, thầy cố Nhưng, một người nghiêm nghị, đã trải qua quá nhiều thăng trầm cuộc đời và có thể nói dây thần kinh xúc động tưởng như đã chai lại, nhưng trước một tin vĩ đại, khi Chúa gọi qua tiếng bề trên, thầy cố đã òa khóc như một đứa trẻ, với một cảm xúc rất người. Nhưng tiếng khóc ấy phần nào diễn tả niềm vui quá lớn lao, một hồng ân quá vĩ đại mà Thiên Chúa ban cho thầy cố vào đúng thời đúng buổi, nhưng lòng người không thể nghĩ tới đúng như lời thánh Phao-lô: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2,9). Để rồi, những ngày tháng hồng phúc ấy, như chính thầy chia sẻ, thầy, hay đúng hơn là cha đã sống mà tâm hồn cứ chộn rộn, cứ xốn xang như trên mây trên gió. Quả là như vậy, trước hồng phúc cao cả khi được chọn gọi, nhất là ở tuổi đã xế chiều, cái tuổi mà chẳng một ai còn đủ can đảm nghĩ đến chức linh mục, nhưng với Thiên Chúa mọi sự đều có thể, thì sự xúc động, tậm trạng xao xuyết ắt cũng là điều dễ hiểu. Khi được biết tin đại vui ấy, mấy đứa cháu lại được đà trêu chú: “Đấy bình thường thì hùng hổ phê phán, chỉ trích, rồi thì trách móc hết đấng nọ, vị kia, thế mà đến lúc mình có việc lại rối không biết phải làm sao”. Đời là thế và thế mới là đời. Đời tu quả là một huyền nhiệm mà sức con người không thể hiểu được… Chỉ biết nói lên hai tiếng tạ ơn mà thôi.
Tuy vậy, trước hồng phúc linh mục đặc biệt ấy, cùng với biết bao lời khen, những tiếng ca ngợi, chúc mừng và nể phục, cũng không thiếu những sự gièm pha, cái bĩu môi, hay sự dè bỉu, như tuổi đó làm cha thì còn làm được cái việc gì? Nhưng họ quên mất có những linh mục chỉ làm cha một ngày, dâng một Thánh lễ rồi về với Chúa mà! Hay Năm Thánh có khác, đến thầy Nhưng mà cũng được cứu… rồi “Không biết cha Nhưng sẽ dâng Lễ như thế nào nhỉ, chắc Chúa run trong tay cha?” Nhưng sự thật thì Chúa luôn run trong tay con người, bởi ai dám nói mình xứng đáng để dâng Mình và Máu thánh Ngài mỗi Thánh Lễ? Và còn bao nhiêu lời bàn ra tán vào nơi nọ nơi kia, nhất là trong một thế giới mà dư luận có thể đẩy lên rất nhanh... Tuy nhiên, vượt lên tất cả, niềm vui của ngầy chịu chức và Thánh Lễ tạ ơn đều diễn ra tốt đẹp trong bàn tay yêu thương của Chúa, trọng sự xúc động của cha mới và trong niềm vui của mọi người. Nhờ đó, với thiên chức linh mục, dù có thể chỉ còn lại những năm tháng ngắn ngủi, nhưng với sự nhiệt tâm, lòng tận tụy hy sinh, chắc chắn cha mới vẫn có thể mang về những mẻ cá lạ như Chúa và Giáo hội ước mong…
Tản mạn đôi điều về hình ảnh vị tân linh mục đặc biết ấy, để như cùng hòa chung niềm vui, dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, cũng như quý đấng bậc. Đồng thời, người viết cũng như ước mong sau những ngày hồng phúc trong chức linh mục, với ơn Chúa, ước mong cha chú sẽ làm vinh quang Chúa tỏa rạng khắp mọi nơi và nơi mọi người mà cha được trao phó trong sứ vụ tương lai và trong suốt cuộc đời…