Người thợ giờ thứ 11 – huyền nhiệm của sự đợi chờ
Thứ tư - 03/09/2025 06:40
4799
Trong Thánh lễ Mở tay thật xúc động sáng ngày 03/09/2025 tại Giáo xứ Trung Linh quê hương, tân Linh mục Giuse Trần Công Tuyền đã tự ví mình như “người thợ làm vườn nho giờ thứ 11”. Đây quả thực là một hình ảnh rất cô đọng, nhưng cũng rất sống động để diễn tả về hành trình ơn gọi của cha.
Hình ảnh “Người thợ giờ thứ 11” lấy từ dụ ngôn “Người thợ làm vườn nho”: “Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?’Họ đáp: ‘Vì không ai mướn chúng tôi.’ Ông bảo họ: ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!’” (Mt 20,6-8). Đặt trong bối cảnh của dụ ngôn này, hình ảnh “Người thợ giờ thứ 11” gợi lên kinh nghiệm “bước trong đêm tối”, nhiều lúc cũng buồn chán, thất vọng, của những người đứng suốt ngày mà chẳng được ai lựa chọn để vào làm việc. Cứ mỗi lần có người đi ra để tìm thợ vào làm việc cho mình, là trong họ lại bừng lên một niềm hy vọng rằng mình sẽ được chọn. Nhưng biết bao lần, ngọn lửa vừa mới nhen nhúm cháy lên ấy đã lại bị hiện thực phũ phàng nhanh chóng làm cho lịm tắt. Sau mỗi lần hụt hẫng như thế, niềm hy vọng lại bị bào mòn đi một chút; cho đến giờ thứ 11 (tức 17h chiều), cái giờ mà chẳng còn ai lại ra ngoài kiếm thợ vào làm vườn cho mình nữa, những người thợ này có lẽ đã ngậm ngùi chấp nhận số phận của mình. Nhưng dù chẳng có bất cứ lý do gì để hy vọng, dưới cái nhìn của người đời, thì họ vẫn kiên cường, nhẫn nại “đứng ở đó”. Giả như, họ nghĩ rằng “Đàng nào cũng chẳng ăn thua gì, vạ vật trong cảnh chờ đợi ngoài đường làm chi cho mệt xác, thôi thì thà cứ về nhà, nằm ềnh ra giường cho sướng cái thân”, thì chắc chắn, họ đã không gặp được một ông chủ lạ kỳ, đi tuyển người ở giờ thứ 11, lại còn trả công ngang bằng với người đã làm từ giờ đầu tiên.
Phân tích một chút về hình ảnh “người thợ giờ thứ 11” như thế, để khi nhìn vào hành trình ơn gọi của tân Linh mục Giuse, chúng ta mới thấy được những nét tương đồng thật đáng kinh ngạc. Ngài bước vào Học viện Đaminh Việt Nam năm 2005. Sau những tháng ngày dài vất vả đèn sách, ngài đã tốt nghiệp Học viện với tấm bằng cử nhân thần học năm 2013. Lúc đó, chắc hẳn, một Chủng sinh vừa mới ra trường, với đầy sự trẻ trung và nhiệt huyết, đã không ít lần sung sướng nghĩ đến việc mình sẽ làm gì để chu toàn thánh chức mình sẽ lãnh nhận trong tương lai rất gần. Thế nhưng, ngài đã phải chờ đợi suốt 6 năm dài đằng đẵng trong vai trò là Thầy tập vụ tại rất nhiều Giáo xứ. Mãi cho đến ngày 16/11/2019, ngài mới được gọi lên chức Phó tế. Với thánh chức Phó tế, ngài tiếp tục phục vụ tại các Giáo xứ trong 6 năm, rồi mới được gọi để tiến lên Thánh chức Linh mục ngày 30/08/2025. Chỉ điểm lại một vài dòng sơ lược, nghe qua thì có vẻ nhẹ nhàng, nhưng để vượt qua được khoảng thời gian ấy, không hề là một chuyện dễ dàng. Bao lần nhìn những anh em cùng khóa, ngay cả những anh em khóa dưới, băng băng tiến bước trong hành trình ơn gọi, còn mình cứ mãi giậm chân tại chỗ, hơn nữa, lại chẳng biết tình trạng này sẽ kéo dài đến khi nào, thì có kiên cường, sắt đá đến mấy, cũng đâu tránh khỏi những giây phút yếu đuối, chạnh lòng? Rồi những lần tưởng chừng như thánh chức đã đến rất gần: cũng đã được rao, cũng đã học hỏi, tĩnh tâm xong xuôi, ấy vậy mà…! Những kinh nghiệm “dò dẫm trong đêm đen” như thế, bất cứ ai ở trong đời tu, chỉ cần nghĩ đến thôi đã phải rùng mình, chứ chưa nói đến chính mình là người trong cuộc. Mặc dù không được nghe trực tiếp cha chia sẻ, nhưng chắc hẳn, cha đã chạm được vào kinh nghiệm của vị Thầy Chí Thánh của mình, Đấng đã phải “trải qua nhiều đau khổ, thậm chí có khi phải kêu van, khóc lóc, mới học được thế nào là vâng phục”. Nhìn lại hành trình ơn gọi của mình, chính cha đã đúc kết: “Ơn gọi của con khác nào hạt giống gieo mãi mà không mọc, một hạt giống mà bao người thân đã phải trăn trở mất ăn mất ngủ ngày đêm, với bao lời cầu nguyện, bao mồ hôi và nước mắt để mong đến ngày nó sẽ nảy mầm, đơm bông kết trái”. Ngay cả người thân còn thế, huống chi là bản thân cha, chắc chắn, hơn ai hết, chính cha đã vật lộn, đã sống một cách sâu sắc kinh nghiệm “phải trăn trở mất ăn mất ngủ ngày đêm, với bao lời cầu nguyện, bao mồ hôi và nước mắt để mong đến ngày ơn gọi của mình sẽ nảy mầm, đơm bông kết trái”.
Với những kinh nghiệm như thế, đến giờ này, khi được Thiên Chúa đoái thương, trao ban Thánh chức Linh mục cao quý, cha đã chọn lựa câu châm ngôn đời linh mục của mình: “Thầy biết con yêu mến Thầy”. Cũng giống như thánh Phêrô khi thốt lên lời ấy, chắc hẳn, cha Giuse đã cảm nghiệm một cách sâu sắc về sự mong manh, yếu đuối, bất xứng của bản thân, đã ý thức được rằng mình sẽ chẳng thể “yêu mến Thầy” bằng sức riêng của mình. “Yêu mến Thầy” khi cuộc đời bằng phẳng, được bước đi trên thảm đỏ của những cánh hoa hồng, quả là một chuyện dễ dàng; nhưng để yêu trong lúc lòng mình đang cuộn trào lên cảm giác cô độc, buồn chán, khi bủa vây xung quanh là một màn đêm dày đặc tưởng chừng như bất tận, thì đó vuột khỏi khả năng của con người. Nhất là giữa một thời đại mà người ta muốn cái gì cũng phải nhanh chóng, đáp ứng ngay lập tức, thì việc kiên nhẫn, sống chết bám trụ lấy lý tưởng của mình, cho dù phải đối diện với muôn vàn thử thách, gian truân, dường như lại càng là một chuyện không thể đối với con người. Và như thế, lời tuyên xưng “Thầy biết con yêu mến Thầy” cũng chính là quyết định từ bỏ sự bám víu vào sự toan tính, khôn ngoan kiểu con người, để xác tín mãnh liệt nơi Đấng “thấu suốt lòng con”, Đấng sẵn sàng đón nhận một tình yêu đầy giới hạn, để rồi lấp đầy nó, nâng nó lên bằng ân sủng dịu ngọt của Người.
Với cái nhìn của một người ngoài cuộc, có lẽ, những dòng trên chẳng thể diễn tả dù chỉ một phần nhỏ cái kinh nghiệm sâu sắc mà cha đã cảm nếm trong chính máu thịt cuộc đời mình. Nhưng trong những ngôn từ đơn sơ, giới hạn ấy chất chứa niềm cảm phục chân thành trước một câu chuyện tình yêu thần linh đầy cảm hứng cho những “người em đi sau”. Nguyện chúc cha mỗi ngày một khám phá cách sâu sắc hơn tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, để rồi cuộc đời cha sẽ trở thành một bài ca, mời gọi cả những người khác cùng với cha hòa thành bản đồng ca, chúc tụng tình yêu mãnh liệt nhưng cũng rất dịu ngọt của Thiên Chúa.