Cơn khát của Chúa minh chứng tình yêu đi bước trước

Chủ nhật - 12/03/2023 04:04  680
005 gnpi 018 samaritan womanĐọc Tin Mừng thứ tư, chúng ta nhận thấy thánh Gioan tường thuật hai lần Chúa Giêsu khát. Lần thứ nhất Chúa khát tại bờ giếng Giacóp giữa giờ ngọ. Ngài đi đường mệt mỏi và khát nước nên đã ngỏ lời xin người phụ nữ Samari cho chút nước uống(x. Ga 4,7). Lần thứ hai Chúa khát vào chiều muộn tại đồi Golgotha khi bị treo trên thập giá Ngài nói “Ta khát” (x.Ga 19,28).[1]

 Nước là thứ quan trọng trong đời sống con người. Thiếu nước có thể gây ra nổi loạn chiến tranh, chấm dứt sự sống. Quả vậy, khi băng qua sa mạc để về Đất hứa, dân Israel kêu trách Đức Chúa, gây sự với ông Môsê và muốn lấy mạng ông. Họ đã toan làm chuyện ấy bởi họ nói rằng “Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy” (Xh 17,4).[2] Ấy mới thấy nước quan trọng như thế nào đối với sự sống của con người, vật nuôi và cây trồng. Tuy nhiên, đó có phải là thứ nước duy nhất mà con người cần hay không?

Khi ngỏ lời xin chút nước uống, Chúa Giêsu đã bày tỏ cơn khát thực sự của mình: Cơn khát của một con người. Tuy nhiên, Chúa Giêsu còn có những cơn khát nữa. Ngài là con người thì Ngài khát về thể lý, nhưng là Thiên Chúa, Ngài lại có nhiều cơn khát nữa mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.

Là mục tử, Chúa Giêsu khát khao đi tìm con chiên lạc, Ngài khát mong đưa các con chiên lạc thoát cảnh hiểm nguy của sói dữ, khỏi vực sâu để về hợp đoàn với các con chiên khác ở trong đồng cỏ xanh và suối nước trong. Chúa Giêsu khát mong chiên lạc trở về, khát mong như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh, khát mong môn đồ mở lòng đón nhận lời sự thật để họ thoát khỏi u mê lầm lạc, khát mong con người được giải thoát khỏi xiềng xích sự chết, khát mong càng ngày càng có nhiều người tin vào lời của Chúa, để nhờ đó được Thánh Thần tình yêu đưa tới sự sống vĩnh cửu.

Vì những cơn khát đó mà Chúa Giêsu đã lên đường. Ngài vượt qua những biên giới của địa lý, của văn hóa, của giới tính mà cuộc gặp gỡ người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp là một ví dụ điển hình. Trong vai là một người xin nước uống, Chúa Giêsu đã khơi lên niềm khát khao sự thật nơi người phụ nữ dân ngoại này. Khởi đầu cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ không dễ dàng bởi người phụ nữ dè chừng, cảnh giác và nghi ngờ. Không bao giờ có chuyện một người Do Thái lại hạ mình để giao tiếp với người dân ngoại Samari. Lại càng không thể có chuyện một người đàn ông lạ giao thiệp với một người phụ nữ ở nơi công cộng. Vì thế, người phụ nữ cảnh giác trước lời xin nước của chúa Giêsu, nhưng nhờ ơn Chúa qua cơn khát ở giếng nước Giacóp này, người phụ nữ đã gặp được Đấng Cứu độ.

Ngày hôm nay Chúa vẫn khát mong và ngỏ lời xin chúng ta đến với ngài. Người phụ nữ Samari đã gặp một người Do Thái, nhưng đây không phải là một người Do Thái bình thường mà là người tuyên bố “ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4,14). Nước trường sinh Chúa Giêsu trao tặng chính là sự thật, là tình thương mà con người của chị đang thiếu. Lúc này, không phải một người Do Thái bình thường chào đón chị mà là Đấng Cứu độ trần gian đang ngỏ lời với chị. Đấng ấy biết rõ cuộc đời của chị bị chìm sâu như thế nào, nhưng không xa lánh con người tội lỗi của chị. Trái lại, Ngài mời chị đến nhận nước hằng sống. Được một người hiểu và thông cảm với một cuộc đời ba chìm bảy nổi của mình, người đàn bà vui mừng chạy về thành loan báo cho nhiều người cùng đến để gặp Đức Giêsu Kitô để niềm vui gặp gỡ Đấng Cứu độ lan tỏa[3]. Đến để giải tỏa cơn khát và loan báo cho nhiều người biết Chúa là nguồn mạch sự sống cũng là quyền lợi và bổn phận của mỗi người Kitô hữu. Trong cuộc đời, chúng ta hay tự thu mình trong cuộc gặp gỡ với người khác, bởi vì cái tôi quá của ta quá lớn. Ta hạn chế mình trong những tương quan bởi chúng ta sợ thiệt thòi, sợ phải hi sinh, sợ mất danh dự. Tuy nhiên, khi xa tránh tha nhân, chúng ta lâm vào cơn khát cơn khát thiếu yêu thương.

Đến với Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được đâu là cơn khát thật sự cần thiết cho vận mạng của chúng ta, đâu là cơn khát giả tạo chóng qua. Chúng ta hãy trở về với Chúa ở trong chay tịnh, cầu nguyện và bác ái để được Chúa cho thỏa mãn mọi cơn khát. Chúa vẫn ngày ngày chào đón chúng ta để đổ đầy vào lòng chúng ta Thánh Thần tình yêu của Người. Hãy khát mong Đức tin để chính Chúa sẽ làm cho đức tin của chúng ta nên sống động. Con đường đổi mới không phải là trải qua những vất vả của cuộc sống này như người Do Thái đi trong sa mạc mà kêu trách Chúa, nhưng là qua sa mạc của cuộc đời đầy lòng tin tưởng và yêu mến. Không ai có thể làm thỏa mãn được cơn khát thâm sâu của chúng ta ngoại trừ Đức Giêsu Kitô – Đấng đã chủ động kêu khát để đến với chúng ta.
 

[1] Có một sự đối xứng đáng ngạc nhiên giữa bài tường thuật về sứ vụ của Chúa Giêsu ở Samari và bài trình thuật về cuộc Tử Nạn của Ngài trong Tin Mừng Gioan. Quả thật, cả hai đều kể ra thân xác mệt mỏi của Ngài, cơn khát của Ngài và sự hoàn tất công việc của Ngài. Từ đó, họ nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa công trình truyền giáo mà Chúa Giêsu thực hiện ở Samari, ở đó, Ngài được tuyên xưng là “Đấng Cứu Độ trần gian” và công trình cứu độ thế giới mà Ngài thực hiện trên thập giá; nghĩa là giữa thời gian mặc khải Đấng cứu độ trần gian và thời gian thực hiện ơn cứu độ cho trần gian. Lúc đó, “mười hai giờ trưa” ở trong câu chuyện này ám chỉ đến “mười hai giờ trưa” trong 19, 14, giờ siêu thăng, giờ ban Thánh Thần, giờ sinh ra Giáo Hội.
 
[2] Ông Môsê đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của dân chúng. Họ sợ hãi trước một cái chết thảm khốc: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”. Đoạn, sự nghi nan ngờ vực trở thành lời nói phạm thượng: “Có Chúa ở giữa chúng tôi hay không?”.

Trước cuộc nổi loạn của dân chúng, ông Môsê sợ hãi kêu lên cùng Chúa: “Tôi phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ còn chút nữa là họ lấy đá ném chết tôi!”. Ông Môsê chấp nhận đánh cược niềm tin của mình; Thiên Chúa phục hồi uy tín cho ông trước mắt mọi người khi cho ông thực hiện ân ban của Ngài trước sự chứng kiến của một số kỳ mục mà ông dẫn theo đến tảng đá.

Chính nhờ niềm tin mà ông Môsê đã vượt qua cơn nguy khốn này. Ông tin rằng không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Hơn nữa, ông đặt trọn niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng, bất chấp những cằn nhằn gây gổ của dân Ngài, đã không từ chối ra tay cứu giúp họ. Đức tin không thể tương hợp với sự tuyệt vọng.

Việc dân Do thái thách thức và cằn nhằn gây gổ ở Maxa và Mêriba được sách Đệ Nhị Luật nêu lên: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Maxa” (Đnl 6, 16). Khi chịu thử thách trong hoang địa, Chúa Giêsu đáp lại cơn cám dỗ thứ hai của Xatan cũng bằng chính những lời này: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4,7).

 
[3] Lời chứng của người phụ nữ làm xôn xao dân Samari và thúc dục họ lên đường đích thân đến với Chúa Giêsu, xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã chấp nhận ở lại với họ hai ngày.

Dù khởi điểm niềm tin của họ xuất phát từ lời chứng của người phụ nữ, tuy nhiên niềm tin của họ không dừng lại nhưng vượt qua lời chứng này: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (4, 42).  Do đâu mà dân Samari đạt đến một niềm tin sâu xa như vậy, nếu không phải là họ đã lợi dụng hai ngày Đức Giê-su ở lại với họ để đích gặp gỡ và đối thoại với Ngài? Nếu thế, đức tin của họ không còn dựa trên lời chứng của người phụ nữ, nhưng trên kinh nghiệm cá nhân của mình trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với Đức Kitô. Lúc đó, sự kiện “Dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4, 40) phải là trọng tâm của câu chuyện giữa Chúa Giê-su và dân Samari.

Thật kỳ diệu, “Đấng Cứu Độ xuất thân từ dân Do thái” được người Samari đón tiếp một cách nồng hậu và được tuyên xưng là “Đấng cứu độ trần gian”, tức là Đấng vượt lên trên tất cả mọi xung đột chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Sự nghịch lý này vang dội ngay ở đầu Tin Mừng:

“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1, 11-12).

Thánh ký kết thúc câu chuyện của mình bằng cách gợi lên tước hiệu mà dân Samari ban cho Ngài: “Đấng cứu độ trần gian”. Quả thật, thánh Gioan là thánh ký duy nhất sử dụng tước hiệu này. Toàn bộ câu chuyện nhận được ý nghĩa sâu xa của nó: loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.

Tác giả: Đức Hữu

***+***
xkta
lpv
gkpv
tvcv
***+***
ra khoi
lnth
LIÊN KẾT

 

 

 

11.jpg 8.jpg 9.jpg 10.jpg 13.jpg
PAGE FACEBOOK
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập290
  • Máy chủ tìm kiếm37
  • Khách viếng thăm253
  • Hôm nay38,970
  • Tháng hiện tại1,060,970
  • Tổng lượt truy cập71,088,727
Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây