Thế kỷ vàng của Tây Ban Nha
Thứ tư - 28/10/2015 15:48
1906
1. Hoàn cảnh của Tây Ban Nha
Đầu thế kỷ thứ 6, nước này chắc chắn tốt hơn những nơi khác. Isabelle la Catholique đã mở đầu phong trào cải cách Giáo Hội, và đã chọn được những giám mục tốt lành, một nền văn chương tu đức phong phú được sản sinh. Sự cắt đứt giữa thế giới chung với thế giới thiêng liêng ít ra là một phần trổi vượt nhờ có đại học Alcalá do đức tổng giám mục Cisnoras (1436-1517) thiết lập, và đại học Salamanque do các tu sĩ Đaminh cải tổ, nhất là Francisco de Victoria. Các dòng tu canh tân nhờ các tu sĩ Biển Đức ở Valladolid và Montserrat, và nhờ các tu sĩ Đaminh, các tu sĩ Phan Sinh, các tu sĩ Âu tinh và sau cùng là nhờ các tu sĩ dòng Tên. Việc tông đồ bình dân phát triển, cùng với các nhân vật như thánh Gioan Avila.
Cũng phải ghi nhận việc mở rộng truyền giáo sang Mỹ châu, Phi Luật Tân, và những nơi khác. Hàng trăm tu sĩ tình nguyện ra nước ngoài truyền giáo trong những điều kiện đôi khi rất khó khăn. Việc phúc âm hóa các vùng đất mới kéo theo việc thiết lập các nhóm tu đức ngoài châu Âu.
Nhất là không nên đánh giá thấp cố gắng phúc âm hóa tạo ra sự nở hoa thánh thiện. Đặc biệt nên nhớ Rosa Lima, người Pêru (1586-1617), là vị thánh đầu tiên của Tân Thế giới ; thánh Marianne de Quito (1618-1645) ; thánh Louis Bertrand, tu sĩ Đaminh ; thánh Phêrô Claver (1580-1654), dòng Tên, quan tâm đến phúc âm hóa cho người da đen, và theo đánh giá riêng, thánh nhân đã rửa tội cho hơn 300.000 người ; tổng giám mục vĩ đại của Lima, thánh Turibio de Movrovejo (1538-1606), tông đồ người da đỏ ; thánh Martin de Porres (1579-1639), dòng Đaminh, vị thánh quen thuộc nhất của Pêru.
Dĩ nhiên, các vấn đề phức tạp cũng không thiếu. Đặc biệt có trào lưu rất mạnh của phái Erasme trong giới thông thái, nhấn mạnh sự trở về với Kinh Thánh và suy niệm cá nhân. Một ảnh hưởng mạnh mẽ, nhưng lại bị nhà cầm quyền bắt chấm dứt, đặc biệt vua Philippe II, vì đôi khi ông hiểu lầm. Cũng có những vấn đề về thần bí sai lạc xung quanh các trào lưu khai sáng. Nhưng trong thời kỳ này, đúng như người ta gọi là thời kỳ vàng. Hiếm có một đất nước mà trong mọi lãnh vực, cả lãnh vực thiêng liêng có những nhân vật có phẩm chất cao. Hai trong số họ thống lãnh tất cả kịch bản (cùng với thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la) : đó là thánh Têrêxa Avila và thánh Gioan Thánh Giá.
2. Thánh Têrêxa Avila và thánh Gioan Thánh giá
Têrêxa Ahumada, được biết đến với tên gọi Têrêxa Avila, sinh năm 1515 ở thành phố Avila. Ngài đi tu trong một tu viện Nhập Thể Avila, sống theo luật Các-men. Lúc đầu ngài sống đạo đức rồi khá hơn nữa, cho đến khi thay đổi nhờ gặp gỡ thân tình với Chúa Kitô đau khổ. Ngài đi vào đời sống thần bí ngày càng sâu xa. Đức Kitô đề nghị ngài canh tân dòng Các-men để lập ra các đan viện nhỏ. Năm 1560, ngài thành lập đan viện đầu tiên, dâng kính thánh Giuse tại Avila. Từ khi đó, ngài không ngừng đi khắp Tây Ban Nha để lập các nhà cho tu sĩ Các-men chân trần[1] ở khắp nơi, bất chấp ngờ vực và phản đối. Ngài qua đời tại Alba de Tormes năm 1582. Được Đức Phaolô VI phong là tiến sĩ Hội Thánh năm 1970, phụ nữ đầu tiên được vinh danh tước hiệu này cùng với Catarina Sienna.
Têrêxa Avila là nhân vật rất hay vì tính cách của ngài, tự do tinh thần trong thế giới ít nữ tính, và cũng có thiên tài văn chương. Ngài viết một số tác phẩm lớn về văn chương tu đức tầm cỡ thế giới và văn chương Tây Ban Nha rất ngắn nhưĐời sống ; Lâu đài nội tâm ; Đường hoàn thiện, thơ ca, thư từ (khoảng 470/15.000 còn lưu giữ). Têrêxa Avila là một con người sáng suốt phi thường. Những trạng thái nội tâm mà đối với đa số còn như mờ mờ, thì lại là sự tỏa sáng lớn, và thánh nhân đã mô tả các trạng thái đó với chính áng sáng đó. Như thế, ngài đã vượt qua sự phân biệt cổ của ba con đường, không phải phủ nhận sự phân biệt, nhưng xác định nó. Như vậy, trong Lâu đài nội tâm, thánh nhân chỉ ra tất cả đời sống thiêng liêng như thế nào, từ lúc ấm lên ban đầu đến khi đi vào trong đời sống thật sự của đức tin, và đến khi kết hôn mầu nhiệm cuối cùng, có thể được tóm tắt trong bảy chặng. Đối với mỗi chặng trong số đó, ngài giải thích làm sao có thể đi vào đó và cách mà ân sủng Chúa làm việc. Tất cả được gắn với tiến trình cầu nguyện. Têrêxa Avila mô tả những giai đoạn khác nhau của tiến trình này, từ cầu nguyện tích cực, tự nguyện, cho đến cầu nguyện do Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Như thế, ngài là một trong những tiến sĩ lớn của chiêm niệm. Cách nào đó, ngài lập ra bản đồ thế giới nội tâm, như nhà thám hiểm địa lý nội tâm. Điều này cho phép tham chiếu, xem hành động phản ứng như thế nào trong hoàn cảnh này, hoàn cảnh kia, loại trừ những nơi đi qua, luôn là một trong những điểm tinh tế nhất của mọi đời sống thiêng liêng. Cái ngài viết, không ai viết trước ngài với chiều rộng và chính xác cao.
Khi nói về chiêm niệm và đời sống thần bí, Têrêxa phấn khích, qua đó đi vào những con đường này. Các tác phẩm của ngài mang lại hiệu quả lôi kéo, và cách nào đó, có phần giảm nhưng đan viện Các-men nhanh chóng bao phủ khắp châu Âu. Thánh nhân cũng có vai trò quan trọng trong việc thờ phượng Chúa Kitô. Đối với Têrêxa, tất cả đi qua Chúa Kitô dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Khi ngài kể về kinh nghiệm của mình, điều đó cũng không thể dễ dàng để người ta chấp nhận tin. Những người đầu tiên đón nhận muốn thấy Đức Kitô cũng hoài nghi. Cách mà ngài kể là hành động của ân sủng nâng đỡ các lý lẽ. Ngài đau khổ nhiều vì những điều này. Ngài được tự do nhờ sự lui tới của các tu sĩ Đaminh, rồi tu sĩ dòng Tên theo tinh thần Tôma Aquinô, các tu sĩ đó chỉ cho ngài rằng sự hiện diện của Đức Kitô trong linh hồn là cái gì bình thường, và thậm chí là căn bản trong đời sống thiêng liêng. Ngài tỏ ra rất quí mến đối với các vị linh hướng uyên bác. Sau cùng, đời sống của thánh nhân đầy dẫy những điều thần bí phi thường, nhưng cách mà thánh nhân nói, tạo ra những qui luật. Ngài cho chị em phương thế nhận ra, chia loại, xác nhận những điều ấy, và nhìn chỗ đứng thật của họ trong hành trình thánh thiện. Trong lãnh vực này, các tác phẩm của ngài được dùng đáng kể.
Têrêxa muốn thiết lập một nhánh nam cho công trình của ngài. Môn đệ đầu tiên là thánh Gioan Thánh giá (1542-1591). Thánh Gioan, từ một khí chất rất khác biệt, cũng phải giữ một vai trò đáng kể trong văn chương tu đức. Chúng ta chỉ có một phần những điều ngài viết, chính yếu là Lên núi Các-men, Đuốc tình yêu hằng sống, Bài ca thiêng liêng,một vài lá thư. Gioan Thánh giá, thần học gia chính xác, nhận định rõ ràng kinh nghiệm Thiên Chúa, từ thâm sâu khó tả, không thể tuôn đổ cách tuyệt nhiên trong các loại kinh viện. Vì vậy, ngài đã sử dụng loại thơ như là suy niệm. Thế nên, cần phải được đọc vừa trong thơ vừa trong các thể loại khác ; hỗ trợ lẫn nhau. Nhưng chính thơ cũng không thể giải mã, nếu không có kinh nghiệm tối thiểu mà ngài kể, vất vả với những điều ngược lại liên tục. Một phần lớn tác phẩm của ngài tái bản, dưới một hình thức khác, cùng giáo thuyết mà Têrêxa : hai đoàn sủng liên kết hài hòa, đặt biệt những gì liên quan đến tiêu chí của đời sống chiêm niệm, được thiết lập trên phép rửa, trên cảm giác Thiên Chúa siêu việt, trên vai trò trung tâm của Đức Kitô trong hiểu biết thần bí. Nhưng nơi mà thánh Gioan đi xa hơn, đó là trong việc mô tả những đêm tối. Quả vậy, đời sống thiêng liêng giả thiết một vài sự từ bỏ không thể có do cố gắng con người nhưng do Thiên Chúa : người ta gọi đó là những thanh tẩy bị động. Gioan Thánh giá là người đầu tiên mô tả chính xác, đó là sự thanh tẩy đầu tiên, đêm tối của những cảm giác, hay sự thanh tẩy sâu xa hơn của đêm tối linh hồn. Như thế, ngài chỉ ra trong linh hồn phép biện chứng của ánh sáng và đêm tối giữ vai trò như thế nào, với diễn tiễn liên tục.
Thánh Gioan ít có ảnh hưởng như thánh Têrêxa. Các vấn đề nổi trội trong dòng Các-men Tây Ban Nha sau cái chết của thánh nữ là điều không lạ gì. Một phản ứng ngược với thần bí xảy ra. Người ta có khuynh hướng đưa các tâm hồn đi xuống theo cách suy niệm bằng phương pháp chủ quan, đồng thời nhấn mạnh sự vâng phục và khắc khổ, bỏ những suy niệm bị động. Chính vì thế, các tác phẩm của Gioan Thánh giá có sự phổ biến hạn chế ở Tây Ban Nha. Ở Pháp, vào thế kỷ 17 lại được đọc nhiều hơn. Nhưng thế kỷ mạnh nhất của Gioan là thế kỷ XX. Chính trong thời đại của chúng ta những tác phẩm của ngài lại được tái khám phá nhiều nhất, được dịch và chú giải.
Một cách chung, phản ứng ngược với thần bí liên quan rộng rãi ở Tây Ban Nha từ những năm 1560 và đến cuối thế kỷ. Người ta biết qua nhiều cách diễn tả. Nhưng đời sống thiêng liêng không mất đi.
Ý và Tây Ban Nha không tóm gọn được hết thế kỷ XVI của tu đức. Nhưng vì lý do chiến tranh tôn giáo, Đức, Anh và Hà Lan giữ vai trò thiêng liêng ít hơn trong các thời kỳ trước. Phải nên nhớ một số nhân vật quan trọng như tu sĩ Biển Đức Louis de Blois (1506-1566), bề trên của Liessies, ở Bỉ. Nhiều cuốn sách có giá trị. Ngài nhấn mạnh việc tôn kính nhân tính của Đức Kitô, sự hiện diện thần linh trong tâm hồn, sự cần thiết nhớ đến Thiên Chúa và tầm quan trọng của chiêm niệm trong sự liên kết với Thiên Chúa. Sách của ngài được đọc và tái bản liên tục. Ngoài ra, lịch sử tu đức không thể thiếu vắng nhiều vị tử đạo của các chiến tranh tôn giáo, như nhà nhân văn, thánh Tôma More, chưởng ấn của nước Anh (1478-1535). Lần đầu tiên, từ khi có Kitô giáo, tu đức tử đạo trở lại mạnh mẽ ở châu Âu.
Minh Sáng chuyển ngữ
Nguồn: Bernard Peyrous, Histoire de la spiritualité chrétienne, Editions de l’Emmanuel 2010
[1] Người ta gọi như vậy, vì họ trở về nghèo khó tột cùng và đặc biệt đi dép không tất (dớ), cả trong mùa đông.