Mất ngủ vì yêu
Thứ tư - 12/04/2023 05:27
1068
Đã bước sang đêm thứ hai rồi, kể từ cái buổi chiều Thứ Sáu kinh hoàng vừa qua, Ma-ri-a Mác-đa-la chẳng thể nào chớp mắt được một chút. Phải chăng là vì sợ hãi người Do Thái? Bởi lúc này, nỗi sợ đang bao trùm trên các môn đệ Thầy Giê-su. Trong khi người dân đang hân hoan mừng Lễ Vượt Qua, ngày Thiên Chúa đã cứu dân họ, thì cửa nơi ẩn náu của các môn đệ đều đóng kín. Họ sợ người Do Thái bắt vì thuộc nhóm ông Giê-su.
Nhưng Ma-ri-a Mác-đa-la không thể chợp mắt được chẳng phải là vì sợ hãi. Bởi nếu sợ, chị đã chẳng đi theo suốt cuộc hành trình thương khó, cho đến tận chân thập giá Thầy Giê-su. Nếu sợ, chị đã chẳng dám đứng trên đỉnh đồi Gôn-gô-tha để chứng kiến Thầy bị đóng đinh vào thập giá. Nếu sợ, chị đã không dám đứng dưới chân thập giá chứng kiến giờ phút hấp hối của Thầy mình.
Maria Mác-đa-la không thể chợp mắt được cũng chẳng phải vì trong lòng đang sôi lên nỗi căm hận các nhà lãnh đạo Do Thái, bởi họ là những kẻ đã chủ mưu giết Thầy Giê-su của chị. Chị không nuôi lòng hận thù, bởi chính chị đã học được bài học tha thứ từ Thầy Giê-su. Chắc chắn chị không hận thù, bởi chính chị là người đã cảm nghiệm rất rõ lòng nhân từ thương xót của Thầy Giê-su rất đáng kính của chị.
Vậy điều khiến chị không thể chợp mắt, dù chỉ là một tích tắc, suốt hai đêm qua là gì? Đó chắc chắn là vì tình yêu.
Đúng. Lòng chị như thể đang có ngọn lửa thiêu đốt. Chắc chắn không ai là người yêu mến Đức Giêsu như Ma-ri-a Mác-đa-la. Chị đã yêu mến Chúa nhiều bởi chị đã được tha thứ nhiều: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47). Người ta còn cho rằng chính chị là người đã được Chúa Giê-su trừ cho khỏi bảy quỷ (x. Lc 8,2).
* * *
Một biến cố chắc chắn chị sẽ chẳng thể nào quên trong đời, đó là cái ngày chị bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Người ta bắt giải chị ra giữa phố phường, trước đám đông dân chúng gồm đủ mọi hạng người. Họ đứng vây quanh chị. Trên tay ai cũng lăm lăm cầm những hòn đá to nhỏ các loại và đầy sắc cạnh. Họ chỉ chực chờ để ném những hòn đá vào người chị. Ôi! Chắc chắn là chết thôi! Người chị run lên bần bật. Hai chân khụy xuống. Mặt cúi gằm xuống đất. Chỉ một lát nữa là người chị sẽ là đích cho những hòn đá to nhỏ đầy sắc cạnh bay đến.
Dù đang trong nỗi sợ hãi tột cùng ấy, nhưng chị vẫn cảm thấy có một điều gì đó lạ thường. Sao họ chưa ném đá mình nhỉ? Mà họ còn mải chất vấn với một người có tên là Giê-su nhỉ? Ông Giê-su này là ai mà họ phải hỏi ý kiến và chờ đợi lời phán quyết của ông ta nhỉ? Trong đầu chị vẫn còn kịp nảy lên những thắc mắc này, tuy cũng đã nghe loáng thoáng những lời đồn đại về người này là người có uy quyền trong lời nói và việc làm. Nhưng những thắc mắc ấy lại nhanh chóng vụt tắt bởi sự sợ hãi khi đang phải đứng trước ngưỡng cửa của cái chết. Tai chị ù hết đi. Đầu óc chị đang hình dung ra những hòn đá đầy góc cạnh sắc nhọn sẽ chọc thủng thịt da chị. Thân xác chị sẽ nát tan và máu me tung tóe, chẳng còn hình hài nữa. Cuối cùng là chị sẽ gục xuống và chết. Tưởng tượng đến những cảnh tượng ấy người chị lại run lên dữ dội. Mồ hôi túa ra đầm đìa nhưng lại thấy lạnh toát.
Đang liên miên trong sợ hãi, bỗng chị nghe có tiếng nói:
- “Họ đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?”
Giật mình, ngẩng đầu lên, chị ngơ ngác không biết trả lời sao nữa. Lạ thật, mình còn sống, mình vẫn còn sống. Thân thể, con người mình còn nguyên vẹn. Một niềm vui ngơ ngác đến khó ngờ.
Xung quanh chẳng còn ai. Chỉ còn chị đối diện với ông Giê-su. Đúng thật, ông là một người có uy quyền trong lời nói và hành động. Vậy là những điều Ma-ri-a Mác-đa-la từng nghe đồn về con người này quả là đúng. Chính Ngài đã cứu chị sống. Chính Ngài đã biến đổi cuộc đời chị.
Nỗi sợ hãi lúc này tan biến hẳn. Bình an dần trở lại. Chị ngước nhìn lên Chúa Giê-su, toan nói lời cảm ơn, thì một giọng nói ôn tồn cất lên trước:
- “Tôi cũng không kết án chị đâu. Chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Như một làn nước mát chảy vào từng khe ngách trong cõi lòng khô cằn của chị. Chị muốn hô lên một tiếng thật lớn: “Cám ơn! Cám ơn Ngài!”. Nhưng người chị cứ lặng đi vì hạnh phúc. Bao năm qua chị bước đi trong bóng tối của tội lỗi lầm lạc, tâm hồn chị trĩu nặng. Giờ đây, thật nhẹ nhàng, thật thanh thản, thật hạnh phúc! Nước mắt đầm đìa của hạnh phúc khôn cùng.
* * *
Ôi, bao nhiêu hình ảnh trong cái buổi chiều Thứ Sáu ấy cứ hiện ra rõ mồn một trước mắt Ma-ri-a Mác-đa-la. Càng nhắm mắt thì lại càng rõ hơn. Chị mong cho trời mau sáng. Càng mong cho thời gian trôi mau thì dường như lại dài vô tận. Sao cái ngày Sa-bát hôm nay lại dài đến thế! Thầy Giê-su quý yêu của chị đã nằm quạnh hiu trong hang mộ được hai đêm một ngày rồi. Chẳng được ai thăm viếng. Chẳng được ai nom ròm. Cõi lòng chị thổn thức. Chị chẳng ngồi yên. Cứ đi đi lại lại. Cứ lắng nghe từng tiếng gà gáy điểm canh.
Tiếng gà vừa gáy điểm canh ngày thứ nhất trong tuần. Ngày hưu lễ đã hết. Ma-ri-a Mác-đa-la bật tung cửa phòng. Tiếng cánh cửa va đập vào tường khiến mấy con chó cũng giật mình thức giấc. Bao nhiêu những dồn nén của một ngày và hai đêm qua, nay đã được giải phóng. Chị vội vã lên đường. Màn đêm còn phủ kín, con đường đêm về sáng còn vắng lặng. Tiếng gió vi vu thổi xào xạc những hàng cây. Chỉ một bóng người thấp thoáng lao đi vùn vụt. Hạt sương mai theo làn gió thổi táp thẳng mặt. Nhưng tình yêu đã không cho sự sợ hãi và ngại ngùng một cơ hội. Mọi thứ lúc này chẳng có ý nghĩa gì. Lòng Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ biết hướng về ngôi mộ vắng, nơi đặt xác Thầy Giê-su yêu quý của chị. Chị không đang tâm để Thầy của chị một mình. Phải chạy đến với Thầy ngay. Hơn nữa, chị thương cho Thầy của mình chết mà không được tẩm liệm, chôn cất đàng hoàng như những người khác. Tẩm liệm thì qua loa, chôn cất thì vội vàng, vì ngày hưu lễ gần kề. Khi sống bao nhiêu người đi theo để được nghe Ngài dạy dỗ, được Ngài chữa lành… Vậy mà lúc chết, chẳng người thăm viếng, không người tiễn đưa. Ngay cả những môn đệ thân tín cũng bỏ và chạy trốn.
Vội vã đấy nhưng vẫn không quên cầm theo bình dầu thơm hảo hạng và những thứ phụ cần để ướp xác Thầy. Vừa bước nhanh trên con đường vắng, chị vừa miên man suy nghĩ “Làm thế nào đẩy tảng đá lớn đậy cửa mồ ra được đây?”. Chỉ một mình thân nữ chân yếu tay mềm thì làm sao đây. Kệ, cứ đi, cứ tiến bước…
Những suy nghĩ miên man dường như đã làm cho quãng đường hôm nay ngắn đi nhiều. Thoáng chốc, Ma-ri-a Mác-đa-la đã đứng trước cửa mồ.
“Ai đã đến trước mình rồi sao?” - nhìn cửa mồ đã được mở, chị tự thắc mắc.
Chẳng cần biết, chị cứ tiến thẳng vào trong mồ. Bàng hoàng đến rụng rời chân tay. Trước mắt chị chẳng còn thấy xác Chúa nữa. Chị vội vã chạy ra toan hướng thẳng về nhà để báo cho các tông đồ Phê-rô, Gio-an và mọi người. Nhưng chị sững lại, một bóng người mặc áo trắng thấp thoáng trong khu vườn. Chẳng cần biết ma hay người. Chẳng cần biết người tốt hay người xấu. Chỉ cần biết có chút thông tin nào về xác Thầy thôi cũng được. Nước mắt ngắn nước mắt dài, chị nhanh chóng tiến lại phía người mặc áo trắng. Chưa kịp lên tiếng thì người ấy đã hỏi:
- “Sao cô lại khóc?”
- “Người ta lấy mất xác Chúa tôi rồi. Ông có biết họ đem xác Chúa tôi đâu không?”. Ma-ri-a Mác-đa-la vội hỏi.
Giọng nói ôn tồn, nghe quen quen :
- “Sao lại tìm người sống giữa kẻ chết?”.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là giọng của Thầy. Đúng cái giọng trầm ấm và nhẹ nhàng mà hồi nào đã nói với chị: “Tôi cũng không kết án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Ma-ri-a Mác-đa-la liền ào tới quỳ sụp dưới chân Thầy kêu lên: “Rabbi, lạy Thầy”.
Tình yêu đã gặp tình yêu. Ma-ri-a Mác-đa-la đã được gặp Thầy Giê-su – Đấng Phục Sinh - Thiên Chúa Tình Yêu. Niềm hạnh phúc dâng trào trong tim… Mùa xuân mới nở rộ… Sứ giả của Chúa Ki-tô Phục Sinh đầu tiên.