Trong niềm hân hoan của ngày lễ kính Thánh Gio-a-kim và Thánh An-na, song thân của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và là ông bà ngoại của Chúa Giê-su, chúng ta cùng nhau suy niệm về những bài Lời Chúa được công bố trong Thánh Lễ hôm nay. Dù Tin Mừng không trực tiếp nhắc đến hai vị thánh này, và những chi tiết về đời sống các ngài chủ yếu được biết đến qua một số nguồn không thuộc Quy Điển Thánh Kinh, nhưng cuộc đời các ngài vẫn là một minh chứng sống động cho một cuộc đời “có phúc”.
Hôm nay, chúng ta không đi sâu vào những chi tiết lịch sử về hai vị thánh, nhưng sẽ cùng nhau gợi lên ba cấp độ của một cuộc đời có phúc dưới ánh sáng Lời Chúa, để từ đó chúng ta nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình với tư cách là người Kitô hữu.
Bài đọc một, trích sách Huấn Ca chương 44 từ câu 1, câu 10 đến 15, là một bài ca ngợi hùng hồn về các bậc tiền nhân, các tổ tiên của dân tộc Ít-ra-en. Đây là một trong những đoạn văn đẹp nhất trong Kinh Thánh, tôn vinh những người đã sống một cuộc đời mẫu mực và để lại di sản thiêng liêng cho các thế hệ sau.
Điểm thứ nhất nổi bật nơi các ngài, và cũng là điều đáng được các thế hệ ghi nhớ và noi gương, đó là một cuộc đời đạo hạnh. Sách Huấn Ca ca ngợi: “Các ngài là những người đạo hạnh”. Các ngài là những con người đạo đức, nghĩa là có một cuộc sống thánh thiện trong mối tương giao sâu sắc với Thiên Chúa, luôn sống theo Ý Ngài. Đồng thời, cuộc sống của các ngài cũng đầy những phẩm hạnh cao quý trong mối liên hệ với tha nhân, thể hiện qua lòng công chính, tình yêu thương, sự khôn ngoan và lòng quảng đại. Các nhân đức đã hội tụ cách hài hòa nơi đời sống của các ngài, vì thế cuộc sống đó thật tốt đẹp, là tấm gương sáng chói cho các thế hệ nối tiếp.
Sự tri ân của các thế hệ đối với những bậc tiền nhân đạo hạnh được thể hiện cả bên ngoài lẫn bên trong: “Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen”. Điều này cho thấy rằng, một cuộc đời đạo hạnh không chỉ mang lại sự bình an cho người sống, mà còn có ảnh hưởng tốt đẹp và lâu dài đến các thế hệ con cháu. Danh thơm của các ngài không phải là danh vọng phù phiếm, mà là sự tôn vinh đến từ những giá trị sống cao đẹp mà các ngài đã để lại. Họ sống mà không cần danh tiếng, nhưng danh tiếng và sự ngưỡng mộ tự nhiên đến từ phẩm hạnh và tác động tích cực của họ.
Những yếu tố trên diễn tả một cuộc đời có phúc theo một chiều kích sâu sắc. Nơi đây, tác giả không đề cập đến những yếu tố vật chất như tiền bạc, ruộng vườn, không nói đến động sản hay bất động sản, mà là những yếu tố tinh thần và thiêng liêng. Đó là những tài sản vô giá, “phi vật thể”, mà các ngài để lại cho hậu thế. Một cuộc đời có phúc không chỉ là một cuộc đời có phúc cho chính mình, mà còn là một cuộc đời có phúc cho các thế hệ tương lai. Đó chính là cuộc nhân sinh của các thánh nhân: các ngài là thánh trước tôn nhan Thiên Chúa và thánh trước mặt người đời. Các ngài là những người sống những điều làm nên mối phúc và để lại phúc cho những người đến sau mình. Đó chính là cấp độ thứ nhất của cái “phúc”. Chúng ta hãy biết tri ân và ghi nhớ đời sống đạo hạnh của các tiền nhân và các thánh nhân trong Giáo Hội. Các ngài là một trong những gia tài cao quý của chúng ta, là nguồn cảm hứng bất tận để chúng ta sống tốt hơn mỗi ngày.
Cái phúc thứ hai mà các tiền nhân, các tổ tiên sở hữu, đó là dòng dõi của các ngài. Trong trích đoạn Sách Huấn Ca, dòng dõi đó là dân tộc Ít-ra-en, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn.
Dòng dõi này trước hết là những con người bằng xương bằng thịt, nghĩa là những người phát xuất từ cùng một huyết thống: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài cao quí, đó là lũ cháu đàn con”. Đây là phúc lành của Thiên Chúa, khi Thiên Chúa ban cho dòng giống được sinh sôi nảy nở đông đảo qua các thế hệ. Sự phong phú về con cháu không chỉ là về số lượng, mà còn về chất lượng đời sống tâm linh.
Nhưng đâu là phẩm hạnh cốt lõi của dòng dõi này? “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước, nhờ các ngài mà con cháu cũng một mực trung thành”. Đây là một sự kế thừa tốt đẹp không phải về của cải vật chất, mà là về di sản đức tin và lòng trung thành với Thiên Chúa. Nó có nghĩa là một sự trung thành đi trên con đường giao ước với Thiên Chúa, con đường tuân giữ các thánh chỉ, mệnh lệnh và giới luật của Thiên Chúa. Những gì làm nên đời sống thánh thiện của các bậc tiền nhân đã được truyền lại và nối kết các ngài với dòng dõi các ngài.
Như vậy, dòng dõi của các ngài sẽ tồn tại, không những trong thời gian mà nhất là trong điều làm nên một dân tộc thánh thiện, một dân của Thiên Chúa. Sự tồn tại này không chỉ là sự tiếp nối về mặt sinh học, mà còn là sự kế thừa và duy trì di sản thiêng liêng, làm cho dòng dõi đó thực sự trở thành một dân thánh của Thiên Chúa.
Chúng ta, những người Kitô hữu, cũng được làm nên một dòng dõi đặc biệt, đó là dân tộc thánh, tư tế và vương giả. Đó chính là Giáo Hội. Trong dân này, sự thông hiệp được sống một cách sâu xa và rộng lớn, đó là sự thông hiệp của các thánh, giữa dân thánh. Chắc chắn đời sống của mỗi người đều có tác động trên toàn thể dân thánh. Mỗi chi thể đều có ảnh hưởng trên các chi thể khác và toàn thân thể. Các thánh nhân đã để lại những gia tài cao quý của sự thánh thiện và tạo nên những ảnh hưởng rất tích cực cho các thế hệ, cho chúng ta ngày nay. Đó là cấp độ thứ hai của cái “phúc”.
Ước gì đời sống của chúng ta cũng là một cuộc sống đạo hạnh, để có ảnh hưởng tốt cho người khác, cho xã hội và Giáo Hội. Bởi vì, di sản quý giá nhất mà chúng ta có thể để lại cho thế hệ mai sau không phải là của cải vật chất, mà là một gương sáng về đời sống đức tin, về lòng yêu mến Chúa và tha nhân.
Trong bài Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chương 13 từ câu 16 đến 17, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ của Chúa biết cái phúc mà các ông đang được hưởng, một cái phúc vượt xa mọi phúc lành khác: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”. Vậy, các môn đệ Chúa được thấy ai, được nghe điều gì, để họ được coi là “có phúc”?
Không gì khác hơn, đó là chính Chúa Giêsu. Phúc lớn nhất của người môn đệ là được thấy Chúa. Phúc lớn nhất của người môn đệ là được nghe Chúa, nghe lời Chúa. Hai quan năng nghe nhìn là cách nói bao gồm tất cả con người, từ thể lý đến tâm linh. Như vậy, môn đệ có phúc vì có Chúa Giêsu. Đây là hạnh phúc lớn nhất của những môn đệ Chúa, mà bao vị tiền nhân, tổ tiên của họ, không được hạnh phúc đó.
Chúa Giêsu khẳng định điều này một cách rõ ràng: “Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe”. Những tổ tiên của họ, những con người đạo hạnh nhất như các ngôn sứ và các chính nhân, đã hằng khao khát và mong chờ ngày Đấng Mê-si-a xuất hiện. Họ chỉ nhìn từ xa “ngày của Chúa”, như chính trường hợp của tổ phụ Ap-ra-ham. Các tổ tiên khao khát nhưng không được thấy và nghe Đấng Mê-si-a, Đấng Ki-tô hiện diện cách cụ thể. Trái lại, những ai mong chờ mà đã gặp được Chúa, thì họ mãn nguyện. Đó là trường hợp của cụ Si-mê-on và cụ An-na (x.Lc 2,22-38), những người đã được diễm phúc bồng ấu Chúa Giêsu trên tay mình. Họ mãn nguyện và ra đi bình an, vì đã thấy: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân…”
Như vậy, hạnh phúc lớn nhất là có Chúa Giêsu, là được thấy Chúa, là được nghe Chúa. Đó cũng là hạnh phúc của chúng ta, những người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta đã được biết Chúa. Chúng ta có Chúa, vì là Ki-tô hữu. Chúng ta được nghe Chúa qua Lời Chúa được công bố và suy niệm mỗi ngày.
Chúng ta không thấy Chúa qua con mắt thể lý, như các môn đệ xưa. Nhưng chúng ta thấy Ngài qua đức tin: chúng ta không thấy mà tin. Và đó là cái phúc lớn hơn cái phúc của những người thấy mà tin, như Chúa Phục Sinh đã nói với môn đệ Tô-ma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Hay như thánh Phê-rô đã nói đến cái phúc của các Ki-tô hữu: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chứa chan một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,8-9). Chúng ta không nghe những lời từ miệng Chúa một cách trực tiếp, nhưng Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, đó là chính Lời Chúa được ghi lại, là Lời từ miệng Chúa đến với chúng ta qua sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, như các tông đồ, chúng ta có cái phúc lớn nhất là Chúa Giêsu. Chúng ta còn hơn các tông đồ ngày xưa, vì không thấy mà tin, không thấy mà yêu, như chính Chúa khẳng định. Đó là cấp độ thứ ba của cái phúc của Ki-tô hữu.
Chúng ta có Thánh Thể, có Lời Chúa, các Bí Tích và biết bao ân huệ khác, làm nên hạnh phúc của đời Ki-tô hữu. Vậy, chúng ta có cảm nghiệm thấy hạnh phúc đó không? Chúng ta có tiếp cận Chúa Giêsu qua các phương tiện và trung gian như Thánh Thể, Lời Chúa không? Tất cả những gì làm nên hạnh phúc của đời Ki-tô hữu, Thiên Chúa đã trao khi ban cho chúng ta Chúa Giêsu như thánh Phao-lô quả quyết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con Một đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
Hôm nay chúng ta mừng lễ hai thánh Gio-a-kim và thánh An-na, song thân của Đức Ma-ri-a. Hai ngài sống sát thời gian Chúa Giêsu nhập thể. Các ngài đã không được hạnh phúc được thấy, được nghe Chúa – mà theo hệ phả, các ngài là ông bà ngoại của Chúa –, tuy rằng đời sống của các ngài đạo hạnh và dòng dõi các ngài là Đức Ma-ri-a đầy tràn ân phúc. Nhưng hạnh phúc lớn nhất đó lại dành cho chúng ta.
Chúng ta phải biết tri ân Thiên Chúa Cha đã ban Con Một cho chúng ta, đồng thời chúng ta phải đến với Chúa Giêsu bằng một cuộc sống thân thiết với Chúa qua cầu nguyện, bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta là những người “CÓ PHÚC”, và được mời gọi sống mối phúc “có Chúa” và chia sẻ cái phúc “có Chúa” đó cho anh chị em chúng ta, ngay cả trong những hoàn cảnh đau thương như đại dịch Covid-19 hiện tại hay bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống. Chúng ta cần cái phúc “có Chúa” rọi ánh sáng trong cảnh tối tăm của cuộc sống.
Trong một thế giới đầy biến động và bất an, việc có Chúa Giêsu trong cuộc đời là ngọn hải đăng soi đường, là nguồn suối bình an và là niềm hy vọng vững chắc. Chúng ta hãy sống cuộc đời mình sao cho xứng đáng với cái phúc lớn lao đó, để mỗi ngày của chúng ta là một lời tạ ơn, một sự làm chứng cho tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa.
Xin Thánh Gio-a-kim và Thánh An-na, những bậc tiền nhân đạo hạnh và gương mẫu, cầu bầu cho chúng ta, để chúng ta luôn biết sống cái phúc được làm con cái Chúa, được có Chúa trong đời, và không ngừng lan tỏa ánh sáng của Ngài đến mọi người xung quanh. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
Tác giả: Lm. Anmai, CSsR