Chân dung người môn đệ
Thứ bảy - 06/09/2025 04:21
51
25Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :
26“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
28“Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có hoàn thành nổi không ? 29Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi, lại không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế diễu mà bảo : 30‘Anh ta đã khởi công xây, nhưng chẳng có sức làm cho xong việc’. 31Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? 32Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. 33Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”
Bài Tin Mừng hôm nay thay đổi quang cảnh của bài Tin Mừng Chúa nhật trước. Cuộc hành trình của Đức Giê-su tiếp tục, nhưng các địch thủ tạm thời biến mất, chỉ còn lại đám đông đang cùng Người lên Giê-ru-sa-lem. Và Người đưa ra cho họ một bài giáo lý mới.
Nếu chúng ta lắng nghe kỹ, những lời Đức Giêsu thốt ra hôm nay được đánh dấu bằng một điệp khúc, một hậu quả thiêng liêng vang lên ba lần : "(Kẻ ấy) không thể làm môn đệ tôi được." Chủ đề của lời tuyên bố này, mà Đức Kitô nói với đám đông rất rõ ràng. Qua ba bức tranh liên tiếp, Người phác họa bằng những nét tiêu cực khuôn mặt của môn đệ mình, tức là Kitô hữu hoàn hảo. Việc chuyển dịch chúng sang những nét tích cực là điều chúng ta sẽ làm trong bài suy niệm này.
1- Đặt Chúa ưu tiên, vác thập giá mình
Hãy khởi sự bằng bức tranh đầu tiên, với một câu nói nổi bật mà phải thừa nhận là có phần "gây sốc". Để trở nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su, người ta phải hoàn toàn cắt đứt mọi ràng buộc với quá khứ ; người ta phải "ghét" (dịch sát chữ, x. Nguyễn Thế Thuấn) cha, mẹ, vợ, con, anh chị em, và thậm chí cả chính mình ! Một câu nói như thế không chỉ gây hoang mang mà còn mâu thuẫn với chính Kinh Thánh và chính lời của Chúa Ki-tô nữa. Chẳng phải điều răn thứ tư yêu cầu chúng ta phải "tôn kính cha mẹ" sao ? Chẳng phải Đức Giêsu đã lên án những kẻ, bằng cách dâng lễ phẩm gọi là co-ban (Mc 7,11) vào Đền thờ, đã tự miễn trừ việc chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ già của mình sao ? Nhưng trên hết, chẳng phải chính Người đã truyền lệnh cho môn đệ phải "yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5:44) sao?
Do đó, cần cẩn thận giải mã ý nghĩa của động từ khủng khiếp "ghét", bằng cách lưu ý kiểu nói của Đức Giê-su và ý định thực sự của Người. Trong nhiều ngôn ngữ hệ Xê-mít, so sánh tương đối hầu như không có : "yêu ít hơn" do đó tự động trở thành "ghét". Hơn nữa, người Đông phương ưa thích màu sắc rực rỡ, ngôn từ phóng đại, giọng điệu nóng sốt và sôi động ; tâm lý của họ luôn xem ra vượt quá lằn mức, khiêu khích, đầy tính biểu tượng. Nên Đức Giê-su, bằng việc nhập thể và nhập thế của mình vào trong những tọa độ cụ thể của một lịch sử và một thế giới chính xác, đã liên tục phản ánh những phẩm chất ấy (chẳng hạn qua lối nói : “Đừng để ai gọi mình là thầy… Đừng gọi ai dưới đất là cha…” x. Mt 23,8-9) Vậy, ý nghĩa cuối cùng của lời tuyên bố mạnh mẽ đó là gì ? Nó bao hàm một trong những chủ đề quen thuộc với lời rao giảng của Chúa Ki-tô. Để trở nên môn đệ đích thực của Người, cần phải tránh xa sự thỏa hiệp, sự hòa hoãn và sự thờ ơ : việc lựa chọn đức tin là triệt để, nó giống như một dòng suối phải tưới mát toàn bộ cuộc sống, nó là đỉnh cao của thang giá trị mà mọi thứ khác được sắp xếp theo. Sự thay đổi về mặt tâm lý mang tính quyết định và dứt khoát, và Đức Giê-su thúc đẩy điều đó, theo kiểu Sê-mit, bằng những lời lẽ gay gắt, mạnh mẽ như cào xé lương tâm.
Dĩ nhiên, Do-thái giáo từng biết tới nhiều trường hợp nam nhân đã thành hôn từ bỏ tất cả để lên đường phục vụ một rabbi, theo ông trong các cuộc lữ hành và học hỏi Lề luật với ông (chuyện Ê-li-sa theo hầu Ê-li-a chẳng hạn : x. 1V 19,21). Nhưng lời Tin Mừng có hai nét độc đáo. Trước hết, với một từ ngữ triệt để (“ghét”) như nói trên, nó đòi hỏi phải theo gương Đức Giê-su (8,19-21; 11,27-28) mà từ bỏ mọi ràng buộc gia đình gây cản trở (x. 14,20). Tất cả các quan hệ hoàn toàn chính đáng đó, y như tình yêu cũng rất chính đáng đối với mạng sống mình, không được trở thành ưu tiên. Cái mới thứ hai : việc tách rời gia đình chẳng có mục tiêu học hỏi Lề luật, nhưng để gắn bó với bản thân Đức Giê-su và theo Người lên Giê-ru-sa-lem ngõ hầu chia sẻ số phận của Người. Chỉ là môn đệ đích thực kẻ có khả năng đưa ra quyết định triệt để và khó khăn này : từ bỏ tất cả những gì cản trở mình bắt chước Chúa Ki-tô.
Lúc ấy, tiếp ngay lời về việc đi theo đầy gian khổ, Tin Mừng trình bày điều kiện thứ nhì, bức tranh thứ hai, vốn thực ra chỉ là một nét vẽ : vác thập giá mình mà theo Đức Giê-su. Như trong lời song song ở 9,23, có một ám chỉ về kiểu chết mà Đức Giê-su sẽ chịu (Trong Lu-ca, không hề có chỗ nào Đức Giê-su nói đến việc mình bị đóng đinh cả). Ở đây ta hãy nhấn mạnh một chi tiết đày ý nghĩa : Mát-thêu (10,38) có cùng một câu nhưng dùng động từ "mang lấy", trong khi Lu-ca lại dùng động từ "vác". Ông xác tín rằng việc tán thành con đường hẹp của sự dấn thân Kitô giáo không chỉ là kết quả của việc đồng ý cách can đảm và nhiệt thành nhất thời mà là một lựa chọn nặng ký, liên tục, thường nhật. Thật vậy, trong 9,23, thánh sử Lu-ca đã diễn đạt ý tưởng này bằng cùng một động từ như Mát-thêu nhưng thêm vào một chi tiết quan trọng : "Ai muốn đi theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo." Thập giá in dấu lên mọi ngày đời chúng ta, "Đàng Thánh giá" không chỉ kéo dài vào đầu giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh ; Đức Giê-su "hấp hối cho đến tận cùng thời gian", như đại triết gia Pascal từng nói.
2. Quyết tâm theo Người, từ bỏ của cải.
Và đây là bức tranh cuối cùng, phong phú chi tiết, được vẽ như thể đó là một bức song bình chứa đựng hai dụ ngôn nhỏ. Hai dụ ngôn này, liên kết với những gì đi trước bằng từ ngữ mạnh mẽ “Quả thế”, mời gọi suy nghĩ cách nghiêm túc : không thể có vấn đề dấn thân theo Đức Giê-su kiểu khơi khơi, bộp chộp, hay làm mọi chuyện cách nửa vời ; phải bảo đảm với mình là có thể đưa công cuộc tới chỗ hoàn tất (c. 28-32).
Dụ ngôn đầu nói về một cây tháp cần xây : có lẽ với biểu tượng này, người ta muốn nói đến cả một pháo đài, một lâu đài, với chi phí xây dựng cao và phải được tính toán cẩn thận. Dụ ngôn thứ hai, trái lại, nói về chiến tranh với các chiến lược liên quan, cần được chuẩn bị kỹ lưỡng, nếu không sẽ chắc chắn thua trận. Ý nghĩa trực tiếp của hai dụ ngôn phản ánh ý nghĩa của cảnh đầu tiên : công cuộc đi theo Đức Giêsu rất khó khăn và nghiêm túc, không thể bước vào cách hời hợt ; thất bại có thể rất cay đắng. Trở nên môn đệ gần như là nhập ngũ thời chiến vậy.
Tuy nhiên, Lu-ca bổ sung thêm một áp dụng khác, đó là "từ bỏ hết những gì mình có", một chủ đề mà tác giả Tin Mừng này rất tâm đắc. Vì Nước Thiên Chúa, cần phải đầu tư tất cả những gì mình có và mình là, phải hy sinh tất cả những gì thân thiết, phải từ bỏ của cải để sử dụng chúng vào công cuộc tình thương : "Anh em hãy bán tài sản của minh đi mà bố thí. Hãy sắm những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời" (12:33).
Vừa rõ ràng áp dụng hai dụ ngôn, lời nói ở c. 33 mang tới một điều kiện mới ; liên hệ của nó với những đòi hỏi trước được đánh dấu bằng việc lặp lại cùng một cụm từ : “không thể làm môn đệ tôi được.” (c. 26,27,33). Ai không quyết tâm từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống mình, sẽ thất bại cách xấu hổ. Tính toán các phương tiện và sức lực của mình, cách nghịch lý, đó là gỡ mình khỏi những gì làm vướng bận.
Tóm lại, tình yêu triệt để dành cho Nước Trời, thập giá phải “vác”, sự từ bỏ của cải : đấy là ba đặc điểm cơ bản của môn đệ Đức Ki-tô. Ích kỷ, hời hợt, tham lam : đấy là ba đường nét làm méo mó khuôn mặt của người Kitô hữu, khiến họ nên giống như những kẻ đã và đang chối bỏ Chúa.
Mỗi khi có ai xin vào dòng của mình, Mẹ Tê-rê-xa Calcutta thường đưa cho họ câu hỏi : “Tại sao cô muốn trở nên một Nữ tử Bác ái ?” Những câu trả lời của các bạn gái thường là : “Con muốn tìm kiếm một cuộc sống khó nghèo - Con muốn sống đời cầu nguyện - Con muốn học hỏi và thể hiện tinh thần hy sinh - Con muốn hiến thân phục vụ người nghèo khó”. Có lần Mẹ đã nhận được bức thư của một thiếu nữ rất giàu có, viết như sau : “Thưa Mẹ, đã nhiều lần con nghe thấy tiếng Chúa Giê-su mời gọi con tận hiến bản thân cho Người qua nếp sống nữ tu. Con đã suy nghĩ nhiều, tự vấn cũng như hỏi han nhiều vị linh hướng xem Chúa muốn con vào Dòng nào. Con đã thấy ở nhiều tu viện, các tu sĩ không thiếu thốn những cái con có trong gia đình và trong nếp sống gia đình con. Vào đó, con đâu phải từ bỏ gì. Con chọn Dòng tu của Mẹ bởi vì con muốn có cơ hội rũ hết mọi sang giàu trần thế và để ôm ấp mãi một đời sống thật nghèo khó và hy sinh.”
Tác giả: Lm. Phêrô Phan Văn Lợi