Sống - chết đời đời
Thứ năm - 25/09/2025 21:47
52
19Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23“Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đằng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !’ 25Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’.
27“Ông nhà giàu nói : ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !’ 29Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ 30Ông nhà giàu nói : ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’ 31Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”
Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, khi còn tại chức, từng có một chuyến công du đặc biệt đến Braxin (Nam Mỹ) từ 1-11/7/1980. Ngày 3/7, tại São Paulo, một trong những thành phố lớn nhất Braxin, ngài đã có bài phát biểu quan trọng trước một đám đông hơn 100.000 công nhân. Diễn văn tập trung vào việc kêu gọi giải phóng xã hội khỏi mọi hình thức áp bức bất công từ chính trị đến kinh tế, từ văn hóa đến giáo dục... Đặc biệt, thánh Giáo hoàng đã áp dụng dụ ngôn ta nghe hôm nay cho thế giới hiện đại, cách tập thể. Ngài nói : “Bên cạnh những nước giàu, nơi người ta sống với tất cả tiện nghi hiện đại, lại có nhiều nước khác thiếu những cái cơ bản nhất… Lắm phen, sự phát triển là một phiên bản vĩ đại của dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khổ. Việc xa hoa và khốn khổ cận kề nhau nêu bật cảm thức bị tước đoạt nơi những con người xấu số.”
Sở dĩ vị Giáo hoàng từng viết thông điệp Sollicitudo rei socialis (Bận tâm về vấn đề xã hội) quý chuộng dụ ngôn ấy vì đây là một trong những trang đáng sợ nhất của toàn bộ sách Tin Mừng. Nếu Thiên Chúa không hiện hữu… nếu sự sống đời đời chẳng hề có… thì Đức Giê-su sai hung, chớ nghe Người. Nhưng nếu Thiên Chúa hiện hữu… nếu vĩnh cửu có thật… thì điều Đức Giê-su nói với ta rất… rất nghiêm túc. Thật trầm trọng nếu hỏng mất cuộc sống đời đời của mình vì chỉ lo giành giật cuộc sống tạm bợ trần gian với con tim vô cảm.
1- Hai thế giới tách biệt nhau bởi một “cái cổng”
Đức Giê-su dựng ra một tình huống bi thảm : bên trong một ngôi nhà, người ta chè chén trong sự xa hoa… bên ngoài, sát cạnh, là cảnh khốn khổ… giữa hai bên có một “cái cổng.” Cổng này phân cách kẻ giàu với người nghèo. Hai vũ trụ song đối. Người giàu sống trong thế giới khép kín trên chính mình, chẳng khi nào bước ra.
Một trong những điểm đáng lưu ý nhất của dụ ngôn, đó là người ta không bảo anh nghèo đạo đức và ông giàu xấu xa. Một bên chỉ đơn giản nghèo khổ và một bên chỉ đơn giản giàu có. Tay phú hộ chẳng bị kết án đã ăn trộm của La-da-rô, hoặc đã tước đoạt anh này thông qua một hoạt động thương mại khôn khéo nào đó, hoặc không trả lương xứng đáng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh ta… Thậm chí người ta không bảo ông ta đã từ chối bố thí cho anh nghèo ! Đơn giản là ông đã chẳng thấy anh ! Mẹ Tê-rê-xa Calcutta từng nói : “Đối nghịch với yêu mến không phải là thù ghét nhưng là dửng dưng !” Ông nhà giàu đã để hình thành một “cái cổng” đáng sợ giữa ông với người lân cận.
Đối với Đức Giê-su, đó là nguy cơ lớn từ của cải. Sự sang giàu bao hàm hai hiểm họa. Một là nó có thể khép lòng trước Thiên Chúa : ta thỏa mãn với những lạc thú và tài sản trần gian, quên đi sự sống đời đời là điều chủ yếu. Hai là của cải cũng có thể khép lòng trước tha nhân : ta chẳng còn thấy kẻ nghèo nằm trước “cổng” nhà mình. Tấm gương trong giúp nhìn thấy mọi vật, nhưng một tấm gương tráng “bạc” chỉ cho thấy mình !
Thực tế, dụ ngôn của Đức Giê-su đan xen một loạt ý nghĩa mà ta cần làm nổi bật và chuyển thành những lời kêu gọi cho lương tâm Ki-tô giáo. Trước hết, có sự đồng cảm rõ ràng với người nghèo : một đặc điểm thường trực trong sứ điệp của Lu-ca, cùng với lòng khinh miệt thói dung tục, xa hoa và ngạo mạn của người giàu. Đây là một chủ đề quen thuộc với nhiều sứ ngôn Kinh Thánh, và vì thế phụng vụ, trong bài đọc thứ nhất, đã trích một trang đầy nhiệt huyết của vị ngôn sứ nông dân sống vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên là A-mốt (6,1a.4-7), người từng thẳng thắn lên án "những cuộc chè chén say sưa của bè lũ quân phè phỡn" ở Sa-ma-ri-a, thủ đô vương quốc Ít-ra-en phía bắc. Cũng vang vọng ở đây các “mối họa” đi kèm với các "mối phúc" Đức Giê-su từng phán trong Lu-ca thánh sử : "Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi được phần an ủi của mình rồi ! Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói" (6,24-25)
2- Hai thế giới tách biệt nhau bởi một “cái vực”
Cùng với chủ đề nêu trên, vốn đánh vào thói chuộng sung túc và chủ nghĩa tiêu thụ trắng trợn của thế giới hiện đại mà chúng ta đang chìm vào trước cảnh khốn cùng của vô số người nghèo khổ, Đức Giê-su ngay lập tức làm nổi lên một chủ đề khác : sự đảo ngược số phận khi thần chết tông cửa. Một sự đối lập được đưa ra giữa hiện tại đầy tai tiếng của lịch sử, trong đó, như A-mốt từng nói ở một trang khác, "đầu kẻ yếu thế bị đạp xuống bùn đen" (2,7), với tương lai của Vương quốc Thiên Chúa, nơi những người nghèo cuối cùng sẽ được tôn vinh và những kẻ giàu sẽ nếm mật đắng của đói khát và đau khổ. Tiêu biểu cho điều này là câu 25, được Lu-ca soạn thảo với nét tinh tế tột độ, sử dụng một loạt từ ngữ phù hợp và gần như điển hình của ông : "Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ."
Nhưng còn một giáo huấn khác mà Đức Giê-su muốn chúng ta lưu ý trong phần thứ hai của dụ ngôn. Nó được minh họa bằng lời Ap-ra-ham nói : "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin." Một mặt, có lòng sùng mộ phép lạ dễ dàng, hiện thân nơi tay phú hộ ăn nhậu : để cứu thân thuộc khỏi nỗi bất hạnh cuối cùng giáng xuống trên mình, ông ta muốn Thiên Chúa dùng đến phép lạ kỳ diệu là làm cho một kẻ chết sống lại trở về cảnh bảo. Câu đốp rất rõ ràng và mặt khác, mở ra lòng sùng mộ dựa trên Lời Chúa. Chỉ có Lời Chúa mới cần thiết và cứu rỗi chúng ta. Nhưng ai có lương tâm bị ích kỷ che mờ, con tim bị lạc thú quyến rũ, cõi lòng bị của cải trần gian đè nặng, đôi tai bị tiếng ồn của giải trí gây điếc, thì khó có thể được lôi cuốn bởi lời kêu mời hoán cải có trong sách Mô-sê và các Ngôn Sứ, nghĩa là trong Thánh Kinh. Ai quen với một cuộc sống hào nhoáng rộn ràng không thể nghe được tiếng của vị Thầy thần linh nói trong thâm tâm và thinh lặng. Như Áp-ra-ham, Đức Giê-su từng khiển trách hai thành phố miền Ga-li-lê : "Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din ! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ long hối cải từ lâu rồi" (10,13). Các phép lạ thường khơi dậy sự tò mò nhưng lại vô hiệu khi lòng người ra nặng nề đần độn..
Trở lại với dụ ngôn, hiện nay, ngày càng xảy ra chuyện thiên hạ tự hỏi hỏa ngục có không. Dĩ nhiên, nếu vội trả lời đâu có hỏa ngục… mà chẳng lưu ý rằng không ai có thể chứng minh sự phủ định xem ra nhẹ nhàng ấy. Dầu sao Đức Giê-su đã không nghĩ như vậy. Hãy thấy rằng đối với Người, hỏa ngục chỉ là sự nối dài cuộc sống trần gian : vẫn mãi xa cách Thiên Chúa, như người ta đã xa cách dưới thế này… vẫn mãi xa cách tha nhân, như người ta đã xa cách dưới thế này… Thành ra con người tự kết án chính mình. Xác nhận duy nhất, đó là khoảng cách mà người giàu đã đặt giữa mình với Thiên Chúa, giữa mình với tha nhân… trở nên dứt khoát, vĩnh viễn, quyết định. Vì Nước Thiên Chúa, cõi Thiên đàng là hiệp thông tình yêu ! Ông nhà giàu đã tự kết án chính mình : “cánh cổng” của ông, phân cách hai thế giới, nay đã trở nên cho ông một “vực thẳm.”
Tôi có xác tín rằng mình đang tạo nên thiên đàng hay hỏa ngục cho mình chăng, mỗi khi tôi mở lòng cho Thiên Chúa và tha nhân… hay mỗi khi tôi khép chính lòng mình lại ? Ai ở dưới thế không yêu thương, thì tự đặt mình ra khỏi bữa tiệc ấy của Thiên Chúa, nơi chỉ những ai thươnyêu g đi vào. (Xin nhớ lại hình ảnh hai cánh cổng tự chọn khi con người vừa bước vào cõi vĩnh cửu. Chúa nhật 21 Thường niên mới rồi).
Nếu trang Tin Mừng này quá mạnh mẽ, quá dữ dội, đó là vì hẳn cần một tiếng kèn trompét lớn lao để đánh thức kẻ sống trong sự mất cảm giác nặng nề. Thế mà nhiều người, đặc biệt hôm nay, vẫn sống trong một loại mất cảm giác thiêng liêng. Các giá trị đời đời đều vắng bóng nơi cuộc sống họ. “Người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin…”. Quả thực là như vậy. Người ta tiếp tục không tin Đức Giê-su, kẻ đã sống lại từ cõi chết, đến đánh thức chúng ta. Nhưng đó là một tin mừng đấy ! Tôi có chấp nhận tin mừng này chăng : vì có trách nhiệm, có tự do… ngay từ hôm nay tôi đang tạo hỏa ngục vốn nhốt tôi trong chính mình hay tạo thiên đàng vốn là thông hiệp và yêu thương…
Kết : Vậy qua phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy trở về với tình yêu thương dành cho người nghèo, với mối hy vọng vào công lý của Thiên Chúa, với niềm tin tưởng ở Lời Người. Nhưng trên hết, chúng ta hãy tái khám phá ơn gọi Ki-tô hữu là sống từ bỏ, sống khó nghèo, sống quảng đại, sống hiến thân, một đòi hỏi mà thánh Lu-ca không ngớt lặp lại suốt Tin Mừng của ông. Nghĩa là đừng tạo ra một “cánh cổng” giữa ta với tha nhân ở đời này, kẻo nó trở thành một “vực thằm” giữa ta với Thiên Chúa, với Thiên đàng đời sau.
Tác giả: Lm. Phêrô Phan Văn Lợi