Bản chất của lòng tin
Thứ sáu - 03/10/2025 21:17
14
Chúa Nhật 27 TN C
5Khi ấy, các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” 6Chúa đáp : “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này : ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.
7“Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó : ‘Mau vào ăn cơm đi’, 8chứ không bảo : ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !’ ? 9Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? 10Đối với anh em cũng vậy : khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Bài Tin Mừng hôm nay khai mở với lời các Tông Đồ xin Đức Giê-su thêm lòng tin cho họ, Sở dĩ có chuyện này là vì Người vừa đưa ra nhiều đòi hỏi xem ra quá mức liên quan tới cuộc sống huynh đệ trong cộng đoàn mà họ là thủ lãnh (x. Lc 17,3-4) : làm sao có thể tha thứ không ngừng. Thành ra 12 ông lo âu về phương sách để sống một chương trình như vậy. Và Đức Giê-su, như thường lệ, trả lời bằng 2 dụ ngôn nhỏ, để cho họ thấy lòng tin của môn đệ, của tín hữu phải như thế nào.
1- Lòng tin mạnh mẽ.
Trước hết, hãy lướt qua Bài đọc thứ nhất được công bố hôm nay là lời ngôn sứ Kha-ba-cúc, trong đó có câu : "Người công chính sẽ sống bởi đức tin", một câu rồi đây sẽ làm nên điểm tham chiếu quan trọng cho tư tưởng của Phao-lô. Thật thế, ai cũng biết Thánh Tông Đồ đã sử dụng nó như một "luận đề" để đan dệt toàn bộ lập luận thần học trong kiệt tác của ngài, Thư Rô-ma. Đoạn Tin Mừng, hôm nay, như nói trên, cũng mời gọi ta suy gẫm về đức tin, và ta có thể chia nó thành 2 phần. Trước tiên là hai câu 5 và 6. Tuy đơn giản, chúng cho ta một cảnh tượng sâu sắc và sống động.
Trung tâm của hai câu này là chữ “Chúa” (Kyrios trong tiếng Hy-lạp), tước hiệu trang trọng và mang tính phục sinh mà chỉ Lu-ca thích dùng để gọi Đức Giê-su ngay cả trước khi Người sống lại, suốt cuộc sống trần thế của Người. Hướng về khuôn mặt vĩ đại này là các "Tông Đồ", tức Nhóm Mười Hai, với một lời cầu khẩn : "Xin thêm lòng tin cho chúng con !" Đây là một lời khấn nguyện sẽ vang vọng qua nhiều thế kỷ, và không phải lúc nào cũng hoàn toàn trong sáng, bởi lẽ đôi khi ẩn chứa lòng mong đợi một sự đáp trả vang dội từ Thiên Chúa, một sự can thiệp mạnh mẽ, ngoạn mục và dứt khoát của Người. Trong câu đáp của mình, Đức Giêsu dường như muốn dập tắt những kỳ vọng quá mức này bằng một dụ ngôn mini đầy nét ấn tượng.
Một mặt, Người gợi lên hình ảnh hạt cải, "hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống trên mặt đất" (Mc 4,31) ; mặt khác là hình ảnh một cây dâu to đùng, rất khó nhổ rễ. Lòng tin mang trong mình một sức mạnh hữu hiệu đến nỗi, dù nhỏ bé như một giọt sương hay mảnh mai như một hạt thóc, nó vẫn có thể làm nên những điều kỳ diệu. Và Đức Giê-su, sử dụng những màu sắc rực rỡ, lối nói thậm xưng quen thuộc với văn hóa Đông phương, đã cho một cây dâu lướt qua trước mắt chúng ta, bay từ cánh đồng xuống biển cả. Tường thuật lời dạy này của Đức Giê-su, Mát-thêu còn phóng đại hình ảnh hơn nữa, nhưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa của sứ điệp : "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này : 'Rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được." (17,20). Y như thành ngữ “Niềm tin chuyển núi dời non” nơi thánh Phao-lô (x. 1Cr 13,1-2) và trong văn hóa Việt.
Tuy nhiên, điểm nhấn chớ nên đặt trên phép lạ được mô tả, như thể Đức Giê-su muốn đề xuất một lòng tin kỳ diệu, mà nên đặt trên hiệu quả của lòng tin chân chính, dù mới chớm nở, dù hiện diện nơi một kẻ yếu đuối, dù đơn sơ đi chăng nữa. Đừng có hiểu lời Đức Giê-su cách trẻ con. Hiển nhiên Người không khuyên chúng ta hãy xin những phép lạ giật gân, gây ấn tượng : chính Người đã chẳng bao giờ bứng một cây vả đem trồng trong biển… và Người từng nhiều phen từ chối làm những dấu lạ kỳ diệu thiên hạ yêu cầu Người. Nếu đặt hình ảnh cây dâu liên hệ tới mối lo của các Tông Đồ ở Lc 17,3-4, thì có thể Đức Giê-su muốn dạy : Hãy dùng đức tin nhổ bật gốc lòng thiếu kiên nhẫn và thói bất khoan dung của anh em trong việc tha thứ. Tuy nhiên ở đây, rõ ràng qua hình ảnh mạnh mẽ này, Người mời gọi chúng ta tiến đến thứ đức tin tạo được những kết quả bất khả về mặt con người. “Cọng lòng tin” nhỏ nhất vẫn mạnh hơn mọi công trình người phàm, vì nó cho chúng ta tham dự vào quyền năng sáng tạo của chính Thiên Chúa.
Nhờ ân sủng ban không, chẳng do công trạng mình, người tín hữu thấy mình được biến đồi cách thần thiêng, cách triệt để : nhờ đức tin, con người trở nên đối tác với Thiên Chúa. Điều này luôn là một mầu nhiệm. Có thể nói tín hữu dần dần trở thành một loại máy thu tiếng Thiên Chúa, tập trung trên bước sóng của Người. Lúc ấy, thật sự xảy ra nhiều điều kỳ diệu. Ví dụ trước cái chết, tín hữu đứng lên để khẳng định sự sống lại. Trước thử thách có thể tàn hại mình, tín hữu làm biến dạng nỗi đau khổ riêng tư bằng tư tưởng về việc cứu rỗi thế giới mà mình được tham dự. Ngay cả khi các hoàn cảnh không thay đồi về mặt vật chất thể lý, mọi sự vẫn đổi thay… vì cách thức ta nhìn hoàn cảnh ấy đã được đức tn soi sáng. Biết bao bệnh nhân tại Lộ-Đức hay nhiều nơi khác, đã cảm nghiệm sự biến đổi ấy nơi đau khổ của họ. Họ trở về nhà, không lành bệnh, nhưng tâm hồn nên bình an, thêm chấp nhận, càng thấy rõ ý nghĩa của những gì họ đang gánh chịu. Ngoải ra hãy nhớ : Thiên Chúa là chủ tể của điều bất khả ! Vô số phép lạ thực sự thể hiện khi người ta tin tưởng hoàn toàn vào Chủ tể của điều bất khả ấy. Điều này thấy rõ trong đời của lắm vị thánh và suốt lịch sử Giáo hội.
2- Lòng tin khiêm tốn
Hãy chuyển sang phần hai, các câu 7-10. Qua dụ ngôn đầy tớ-ông chủ, Đức Giê-su muốn dạy thêm : lòng tin không than phiền, không đòi hỏi, không kiêu ngạo, nhưng hoàn toàn sẵn sàng ; đó là chờ đợi, tín thác, khiêm tốn, dấn thân vô vị lợi. Dụ ngôn Người dùng có lẽ gây sốc đối với sự nhạy cảm xã hội của chúng ta hiện thời nhưng lại dễ hiểu trong khuôn khổ các mối quan hệ của thế giới cổ đại. Sứ điệp rõ ràng không nằm trong quan niệm cứng nhắc về các mối quan hệ xã hội ấy nhưng nằm ở sự mau mắn sẵn sàng mà người đầy tớ phải thể hiện, và nó cố ý nhắm vào quan hệ giữa Thiên Chúa với con người. Trước mặt Thiên Chúa -Đức Giê-su khẳng định- chúng ta không thể đòi hỏi quyền lợi, đặc ân, ưu đãi hay phần thưởng. Đây là thái độ mà Thầy Chí Thánh sẽ lên án mạnh mẽ trong dụ ngôn tiếp theo về người Pha-ri-sêu và người thu thuế (18,9-14). Tín hữu đích thực là kẻ hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa mà không tính toán, ý thức rằng "mình chỉ làm xong việc phải làm."
Lòng trung tín sẵn sàng và bất suy suyển này từng được mô tả sống động trong Thánh vịnh 123,2 : "Như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta." Trong hình ảnh nầy, người ta cảm nhận một sự căng thẳng : y như "viên thư lại" nổi tiếng của Bảo tàng Ai-cập ở Cairo (một bức tượng) luôn dán mắt vào môi của chủ mình, sẵn sàng thu nhận tiếng nói của chủ để biến chúng thành lời văn, thì người tín hữu cũng luôn tìm kiếm thánh ý Chúa, ngay cả trong những dấu hiệu nhỏ nhặt. Đấy là cuộc sống và niềm vui của đương sự. Mô hình "chủ-nô" không được gây hiểu lầm, tạo ấn tượng về một sự gắn kết đầy kinh hãi, bị ép buộc và kiểu nô lệ. Chức năng duy nhất của nó là tôn vinh sự tận hiến mãnh liệt và trọn vẹn cho Thiên Chúa, được công nhận như Đấng tối thượng đích thực.
Quả thế, Thánh Kinh và thần học cho ta biết Thiên Chúa là Đấng vô cùng ở trên tất cả, trên mọi sự trong vũ trụ, trên nhân loài. Người là Đấng Toàn Năng, Toàn Tha, Siêu Việt, Bên kia tất cả. Một ông thần vừa tầm ngũ quan của ta, một ông thần hữu hình, sờ mó được, sẽ chỉ là một trong những vật của thế giới, một vật vừa tầm trí tuệ của ta.
Thành thử chúng ta phải khiêm tốn đón nhận dụ ngôn gần như chướng tai mà Đức Giê-su kể cho chúng ta về các “đầy tớ vô dụng.” Thật thế, làm sao không thực sự nhận ra rằng chúng ta chẳng có những khoản đòi Thiên Chúa phải trả, và rằng chúng ta chỉ là những trẻ nhỏ, rất nhỏ, trước mặt Người. Ta không thể thao túng Thiên Chúa, hoặc bằng ma thuật của bái vật giáo sơ đẳng, hoặc bằng tham vọng duy lý muốn đặt Thiên Chúa vào trong não bộ của mình. Thái độ đích thực duy nhất là khiêm tốn : vâng, chúng ta đúng là những đầy tớ vô dụng. Các mối quan hệ của ta với Thiên Chúa chẳng mang tính "hợp đồng", mà chỉ là “cho không” từ phía Người, cho dẫu Người đã bao phen lập “Giao ước” với nhân loại. Trước mặt Người, lòng kiêu hãnh, óc tư lợi lẫn thói đòi bù phải tan biến, và lòng khiêm nhường, sự phục vụ quảng đại lẫn đức dâng hiến trọn vẹn phải tỏa sáng lên. "Những màn trình diễn" của chúng ta luôn nhỏ bé so với sự siêu việt vĩ đại và tình yêu mầu nhiệm của Người. Và nếu thực sự khiêm tốn như thế, đức tin chúng ta sẽ trở thành mạnh mẽ lẫn hữu hiệu.
Tác giả: Lm. Phêrô Phan Văn Lợi