Chúa Nhật 30 TN C: Chính nhân và tội nhân

Thứ năm - 23/10/2025 23:43  15
9Khi ấy, Đức Giê-su kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác : 10“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ 14Tôi nói cho các ông biết : người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi ; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”

unnamed 2Toàn bộ dụ ngôn Đức Giê-su kể hôm nay dựa trên hai từ đầy ý nghĩa và được nhấn mạnh, vì nằm ở đầu và cuối câu chuyện, theo kiểu đóng khung của văn chương Sê-mít. Khai mào, một kẻ tự tin mình “công chính” (“dikaios” trong tiếng Hy-lạp). Kết thúc, một kẻ “nên công chính” khi trở về nhà (Nguyễn Thế Thuấn : “được giải án tuyên công”, “dédikaiômẻnos” trong tiếng Hy-lạp). Bài học của Tin Mừng nằm trong hai chữ này. Việc chuyển từ thể chủ động sang thể thụ động nói lên nhiều chuyện như ta sẽ thấy dưới đây.        

Thứ đến, như nơi dụ ngôn Chúa nhật tuần trước có khuôn mặt góa phụ và quan tòa, trong bức tranh này cũng có hai nhân vật. Một bên là ông Pha-ri-sêu, thành viên của một cộng đồng tôn giáo tuân thủ nghiêm nhặt Lề luật. Học thuyết của họ là trào lưu mang tính tu đức và nhân bản nhất của Do-thái giáo. Vào thời Đức Giê-su, người ta ghi nhận phái Pha-ri-sêu nằm ở mức độ “thu phục quần chúng” cao nhất, như kiểu nói hiện nay trong bao cuộc thăm dò các nhân vật chính trị. Bên kia, trong bóng tối của Đền thờ, là một người thu thuế (kẻ thâu tiền cho công quỹ). Ông ta là khuôn mặt bị ghét bỏ do làm tay sai cho một quyền lực ngoại bang thống trị đáng tởm, quyền lực Rô-ma. Những người thu thuế và các cô gái làng chơi từng bị kể chung như hạng vô đạo đức, đáng khinh bỉ (có hàng chục từ khác nhau trong tiếng Hip-ri để gọi họ !) Rõ ràng Đức Giê-su đang khiêu khích cảm thức tự nhiên của thính giả : Người trình bày một cá nhân bị công luận coi là đáng khinh như một hình mẫu nên noi (cũng hãy nghĩ đến dụ ngôn ông Samari nhân lành), và Người chọn chính xác đại diện của một trong những phong trào tôn giáo được kính trọng nhất như một hình mẫu cần tránh. Lý do : chân dung đích thực của hai nhân vật này hiện lên qua việc nguyện cầu của họ.

1- Tự tin công chính, trở thành tội nhân

Người Pha-ri-sêu bắt đầu bằng một lời cầu nguyện hoàn hảo về mặt hình thức : nó chứa đựng danh sách những công đức của một cuộc sống đúng đắn, chính trực và đáng trọng. Nhưng gốc rễ của lời cầu nguyện này rõ ràng nằm trong sự công chính của con người. Một kẻ xác tín rằng minh đang cân bằng thanh toán với Thiên Chúa : ông ta đóng thuế thập phân đầy đủ, ăn chay không chỉ mỗi tuần một ngày theo luật định, mà là hai ngày. Tóm lại, ông là hình mẫu đích thực của một kẻ sùng đạo và tuân luật, hoàn hảo và tự tin. Cũng phải thêm rằng một đàng ông chẳng xin gì cùng Thiên Chúa, đàng khác tỏ ra khinh bỉ tên thu thuế tội lỗi vì chẳng “tham lam, bất chính, ngoại tình.

Rõ ràng người Pha-ri-sêu, gắn bó với các việc làm và lòng kiêu hãnh của mình, đã bị Thiên Chúa từ khước, bất chấp những kiểu bày tỏ lòng "đạo đức" của ông. Sự công chính của ông không được trời cao thừa nhận. Bởi lẽ ơn cứu rỗi đến từ đức tin và từ việc khiêm nhượng lẫn yêu mến tán thành hành động của Thiên Chúa. Hồng ân cứu rỗi lớn hơn công trạng chúng ta nhiều và do đó không bao giờ có thể được coi như một phần thưởng bắt buộc cho những gì con người đã thực hiện. Ở trang này, chúng ta gặp một trong những yếu tố thân thiết nhất đối với Lu-ca và Phao-lô. Để hiểu rõ những lời của Đức Giê-su được Lu-ca tường thuật, chỉ cần đọc lại các câu : "Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi... Các ông, phái Pha-ri-sêu, tỏ ra mình là người công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông, bởi vì điều cao quý đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa... Bấy giờ các người mới nói : 'Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại : 'Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !’” (5,32; 16,15; 13,26).

Đối với Đức Giê-su, cũng như đối với thánh Phao-lô trong Thư Rô-ma, con người đứng trước Thiên Chúa chẳng bao giờ công chính cả, nó chỉ có thể là tội nhân được công chính hóa thôi. Ki-tô hữu chẳng tốt hơn những kẻ khác, người ta đôi khi nói thế, mà cũng đúng thật ! Ki-tô hữu không “dễ thương” hơn những kẻ khác, đương sự biết là mình “đáng thương”... là tội nhân được ân xá, được cứu độ ! Nhìn rộng ra, phải chăng người ta có thể nói thế giới hôm nay hình như đầy rẫy những tay Pha-ri-sêu “tưởng mình công chính” ? “Tội lỗi ư ? Tôi bất biết !” Công thức này diễn tả một khuynh hướng chung hiện thời : người ta không muốn tự kết tội... họ còn đi đến chỗ tự biện minh : “Tôi có làm chi sai đâu nào !” Thậm chí có những chế độ tội ác lưu danh trong lịch sử nhưng vẫn luôn vỗ ngực tự hào, và chẳng bao giờ mở miệng xin lỗi nhân loại !

2- Tự nhận tội nhân, được nên công chính

Hoàn toàn khác, thậm chí trái ngược, là lời cầu nguyện khẩn xin của tay thu thuế bị ghét bỏ. Nó chỉ chứa đựng một lời thú nhận hoàn toàn sự khốn nạn của ông : " Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi." Ở đây, gốc rễ của lời cầu nguyện cũng rất rõ ràng : nó không còn là sự công chính của con người (việc thiếu sót điều này được thừa nhận) mà là ơn công chính hóa cứu rỗi của Thiên Chúa. Một Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, có thể làm mất cân bằng cán cân thanh toán, bởi vì Người chẳng phải là một bạo chúa hay một chủ nợ tham lam, nhưng là một hiền phụ : tất cả những gì Người đòi hỏi ở phàm nhân là lòng hoán cải. Do đó, tay thu thuế không phải là hình mẫu của một kẻ sùng đạo, tuân luật và xác tín mình được rỗi, song là một người có đức tin chờ đợi Thiên Chúa thứ tha và cứu độ.

Thời đó, tất cả dân Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người Pha-ri-sêu, hạng trong sạch, thánh thiện, tích cực, như ta nói hôm nay. Và hết thảy dân cũng từng cho rằng Thiên Chúa kết án những người thu thuế, hạng vô đạo, lạm dụng, bất chính, như hôm nay thiên hạ bảo. Thế nhưng ngược lại, Đức Giê-su từng nói về Thiên Chúa như “cha của những kẻ lạc đường” : Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45), Đấng là “bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,35)... Vị Cha ấy âu yếm đón nhận đứa con hoang đàng và sa đọa (x. Lc 15)... Đức Vua quảng đại ấy tha món nợ khổng lồ cho tên đầy tớ không thể trả nổi (x. Mt 18,27)... Mục Tử ấy xem ra mến tiếc một con chiên lạc hơn cả bầy cừu (x. Lc 15). Vâng, Thiên Chúa yêu thương kẻ dữ ! Người là “Tạo Hóa Nhân Lành” mà ! Người chẳng đè bẹp nhưng nâng dậy ! Người chẳng phá hủy nhưng chữa lành ! “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12,20). Thay vì kết án, Thiên Chúa thứ tha... thay vì trừng phạt, Thiên Chúa giải cứu. Tóm lại, Thiên Chúa của Đức Giê-su ngỏ lời không phải với các chính nhân nhưng với các tội nhân... vì Người là lòng yêu, là tình mến ! Kẻ Thiên Chúa ưu ái, đó là kẻ cần Người hơn cả. Một kinh nghiệm phổ quát : đứa con đau yếu, tàn tật, đòi hỏi mẹ săn sóc nhiều hơn, chính là đứa khơi dậy tình yêu hơn cả, vì nó không thể sống mà không có tình yêu của mẹ. Thiên Chúa đâu khinh bỉ kẻ tội lỗi, Người đau khổ với y về sự dữ của y.

Chúng ta hãy kết thúc bằng một câu chuyện Do-thái ngắn về việc cầu nguyện đích thực : nó nắm bắt cách lý tưởng trọng tâm dụ ngôn của Đức Giê-su, đó là lời cầu nguyện phó thác, ngợi khen, tạ ơn và thú tội với Thiên Chúa. Nhân vật chính là Đa-vít sau khi ngoại tình với Bát Sê-va và giết U-ri-gia chồng bà. Ông đứng trước mặt Chúa và chỉ nói : "Lạy Chúa, con đã phạm tội !" (x. 2Sm 12,13). Rồi ông im lặng, im lặng trước sự hiện diện của Người. Tại sao ông im lặng ? Người kể chuyện tự hỏi. Bởi vì ông giống như kẻ nghèo khổ, đói khát, quần áo rách bươm, một ngày nọ may mắn được vào triều đình, ra trước dung nhan chói lọi của nhà vua. Khi đến chân bệ ngọc ngai vàng, ông không nói gì, mặc dù các cận thần thúc giục ông cầu xin giúp đỡ. Thật thế, ông không cần lời nào cả. Chính thân thể của ông, sự tồn tại khốn khổ của ông là tiếng kêu mạnh mẽ và thống thiết hơn bất cứ lời nói hay lời cầu nào.

Kết luận : Qua hai con người trong dụ ngôn hôm nay, Đức Giê-su cắm trước mắt chúng ta hai thái độ nhân loại : trong một trường hợp, người ta chẳng cần Thiên Chúa, người ta tự xây dựng với những nỗ lực riêng mình. Trong trường hợp kia, người ta không đạt đến điều đó và cầu xin Thiên Chúa can thiệp : “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Nếu hiểu đúng tư tưởng của Đức Giê-su, ta có thể tóm tắt thế này : hoặc anh muốn tự mình thu xếp cuộc sống, thì anh rốt cục sẽ thất bại… hoặc anh chấp nhận lệ thuộc Thiên Chúa, thì anh được cứu rỗi và thành toàn… Đẹp và thật biết bao công thức mở đầu việc xưng tội : “Lạy Cha, xin Cha làm phúc cho con, vì con là kẻ có tội.” Thiên Chúa đích thực của Đức Giê-su là thế. Vai trò làm phúc này, chúng ta muốn Người thực hiện ra sao ?

Tác giả: Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây