Thế giới bên kia

Thứ bảy - 08/11/2025 04:07  16
27Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này : Nếu anh hay em của người nào chết đi để lại vợ góa mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 29Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30Người thứ hai, 31rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ?”

34Đức Giê-su đáp : “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được giống như các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. 38Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”

unnamed 1Blaise Pascal (người Pháp, 1623-1662) là một vĩ nhân của thế giới, vì ông vừa là nhà toán học, nhà vật lý, nhà phát minh, vừa là tác gia và triết gia. Đặc biệt hơn nữa, ông là một tín hữu Công giáo từng có kinh nghiệm thần bí và đã để lại nhiều suy niệm sâu sắc về đức tin. Chính ông là người đã cho chúng ta lời bình luận hay ho bậc nhất về bài Tin Mừng hôm nay. Ông đã để lại nó trong “Hồi ký” (Mémorial), một tác phẩm viết trong đêm 23-11-1654 mà ông gọi là “Đêm rực lửa”. Dù hết sức ngắn, đây là một trong những tác phẩm cổ điển của tu đức Ki-tô giáo nói chung. Bản văn viết trên giấy da, được ông khâu rồi tháo ra khâu lại vào những bộ quần áo khác nhau ông mặc. Nó đã đồng hành với cuộc sống của tín hữu vĩ đại này từ năm 1654, cho đến khi ông qua đời năm 1662. Nó mở đầu bằng câu kết của đoạn Tin Mừng ta đang suy niệm : "Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, chứ không phải của các triết gia và bác học. Xác tín, Xác tín, Tình cảm, Niềm vui, Bình an. Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô. Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của bạn. Thiên Chúa của bạn sẽ là Thiên Chúa của tôi. Quên đi thế gian và mọi thứ ngoại trừ Thiên Chúa. Người chỉ được tìm thấy bằng những con đường được chỉ ra trong Tin Mừng."
 
1- Quan niệm sai lầm của phái Xa-đốc
           
“Quên đi thế gian và mọi thứ ngoại trừ Thiên Chúa,” Pascal nói. Nhưng thực tế, xem ra thiên hạ làm ngược lại.
Cách đây nhiều năm, theo một cuộc thăm dò tại nước Pháp, quốc gia từng được gán mỹ từ “Công giáo” (France catholique), 50% dân số không còn tin vào bất cứ sự tồn tục nào sau cái chết. Đó chẳng phải là một quan niệm hiện đại như có vẻ. Vì hơn 20 thế kỷ trước, vào thời Đức Giê-su, phái Xa-đốc cũng từng chối bỏ sự sống lại sau tử vong rồi…


Đây là một phái quý tộc-bảo thủ, được ủng hộ chủ yếu bởi giới giáo sĩ Do-thái. Cái tên này gợi nhớ Xa-đốc, vị thượng tế thời Sa-lô-môn, người từng liên can đến một triều đại tư tế đích thực vốn đã đạt được quyền lực đáng kể, đặc biệt trong những thế kỷ sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.

Vốn đối lập quyết liệt với người Pha-ri-sêu, phái Do-thái bình dân và "cấp tiến" hơn, phái Xa-đốc là những thần học gia duy truyền thống. Quan điểm của họ về thế giới bên kia neo chặt vào Ngũ Thư, 5 cuốn đầu của Cựu Ước. Mà ta biết Cựu Ước khá do dự về sự phục sinh, ngoại trừ một vài trực giác rời rạc (Is 26,19; Ed 37; Tv 16; 49) và một vài sách viết bằng tiếng Hy-lạp (Kn và Mcb) vốn không được chấp nhận vào Quy điển Hip-ri.

Qua "nố" thần học của mình, mấy tay Xa-đốc ấy đã cố gắng lôi Đức Giê-su vào một cuộc tranh luận tư tưởng nhằm bêu riếu và chống lại Người, kẻ được coi như một nhân vật quá nổi tiếng ở Giê-ru-sa-lem và do đó tác hại cho quyền lực của họ. Cái nhìn về thế giới bên kia mà họ trình bày đầy thô thiển, mang tính duy vật và được hình dung như một bản sao của thế trần. Đó là trường hợp kỳ lạ của bảy anh em mà theo luật thế huynh của Kinh thánh (anh em của chồng chết không con phải lấy bà góa làm vợ để sinh con cho người chồng), bị buộc phải kết hôn với cùng một phụ nữ.

2- Mạc khải của Đức Giê-su

Đứng trước trào lưu duy vật thời Người, Đức Giê-su đã trả lời như sau. Trước hết, Người bảo thế giới mai hậu là có thật và ai nấy sẽ phải đi vào. Nhưng đi vào để hưởng hạnh phúc thì chỉ “những ai được xét là xứng đáng” (thể thụ động chỉ hành động của Thiên Chúa). Điều nầy rất nghiêm trọng ! Ta không thể cứ thế bước vào như thể đó là một bãi đất trống hay một sảnh ga tàu, vì sẽ có hai số phận, hai tình trạng, hai cảnh đời trái ngược. (x. Mt 25,46)

Tiếp đến, Đức Giê-su gợi ý rằng không thể tưởng tượng ra cuộc sống phục sinh, chớ có biếm họa cảnh đời mai hậu… điều đó vượt quá sự nắm bắt kiểu khoa học hoặc kiểu thuần lý của ta. “Họ giống như các thiên thần.” Nghĩa là sinh hoạt giới tính chẳng còn, sẽ chấm dứt chuyện sinh đẻ vì người ta có chết nữa đâu ! Nên nhớ cũng có một mạc khải trong thế giới tự nhiên nữa. Có gì chung giữa con sâu và con bướm ? Đó là cùng một hữu thể tiếp tục tồn tại, nhưng trong một sự sống khác hoàn toàn. Đây chỉ là một hình ảnh, nhưng dù sao vẫn gợi ý cho ta rằng chớ thử tưởng tượng cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống phục sinh, vốn sẽ biến đổi thân xác nghèo hèn khốn khổ của con người.
 
Thứ ba, Đức Giê-su cho thấy những người quá vãng được đưa vào sự thân tình với Chúa Cha. “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” Đấy còn đẹp hơn tất cả những gì bạn có thể tưởng tượng, Đức Giê-su xem ra bảo vậy, với kinh nghiệm riêng của mình. Đây là một tư tưởng được thánh Phao-lô lấy lại và mạnh mẽ diễn tả lại: “Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử của Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, trước thánh nhan Người, trong tình yêu” (Ep 1,4-5).


Điều đó có nghĩa : vận mệnh của người công chính khi vượt qua ranh giới cuối cùng tức cái chết là được hiệp thông với Thiên Chúa, như bà mẹ và bảy anh em tử đạo đã trực giác trong anh hùng ca Ma-ca-bê viết vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên (Bài đọc I) : "Vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời... Chúng tôi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại." (2Mcb 7,9.13). Tương lai tối hậu của chúng ta không phải là một bản sao được cải thiện của hiện tại, mà là việc bất ngờ bước vào cõi vô biên của Thiên Chúa. Người là sự sống, và ai tin vào Người sẽ sống với Người lẫn cho Người trong một chân trời toàn hảo và mầu nhiệm.

Như những chàng trai sách Ma-ca-bê đã tuyên bố, Đức Giê-su cũng cho chúng ta hiểu rằng dây liên kết sự sống và liên kết tình yêu dệt nên giữa tín hữu với Thiên Chúa trong cuộc đời trần thế của họ không thể bị phá vỡ ; đúng hơn, nó nở bung đến mức hoàn hảo. Sự hiệp thông cuộc sống ân sủng suốt hành trình trần thế của chúng ta dẫn đến một sự hiệp thông sự sống vĩnh cửu và trọn vẹn. Theo nghĩa này, chúng ta gần như có thể sử dụng một đoạn văn hùng hồn trong tác phẩm “Lũ người quỷ ám” của Dostoevsky (đại văn hào Nga) để làm sáng tỏ bản văn Tin Mừng : "Sự bất tử của tôi là điều cần thiết, để Thiên Chúa khỏi phạm tội và dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tình yêu mà Người đã thắp lên trong lòng tôi... Tôi đã khởi sự mến yêu Người và vui mừng trong tình yêu của Người, vốn được đặt trong tôi như một tia lửa thần thiêng. Làm sao Người có thể dập tắt tôi lẫn niềm vui của tôi và biến chúng ta thành hư vô được ? Nếu có Thiên Chúa, thì tôi cũng bất tử." Và đây là lý do tại sao một trong những lời tâm sự cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ vào tối Thứ Năm Thánh tại Giê-ru-sa-lem là : "Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Và nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14,2-3).

Thứ bốn, sau khi tự mình khẳng định việc kẻ chết sống lại, giờ đây Đức Giê-su dựa vào chính Kinh thánh :“Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về Bụi Gai…”. Người như muốn bảo hãy tìm ý tưởng về phục sinh không phải nơi các triết gia và các tay tưởng tượng nhưng trong Mạc khải. Và để kẻ đối thoại là phái Xa-đốc dễ chấp nhận, Người chỉ xoay quanh Ngũ Thư. Đức Giê-su trích câu Thiên Chúa nói với Mô-sê (Xh 3,6) rằng Người “là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp.” Người loan báo sẽ cứu dân khỏi cảnh nô lệ Ai-cập vì đã giao ước với tổ tiên của họ. Câu chuyện và lời tự xưng như vậy cho thấy : 1-Các tổ phụ đã chết nhưng không tuyệt diệt mà vẫn tồn tại nên Thiên Chúa phải giữ lời. Chẳng ai bị bó buộc giữ lời -mà cần gì hứa lời- đối với một kẻ tiêu vong mãi mãi, vì đâu có sợ “làm tủi hổ vong linh” y, đâu có sợ “chẳng còn mặt mũi nào nhìn y khi xuống suối vàng” ! 2-Áp-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cóp không chết nhưng còn sống mãi, vì TC đã giao ước là cho tới muôn đời.

3- Nền tảng của lời mạc khải

Và xác tín tích cực ấy, đối với Đức Giê-su, dựa trên tư tưởng căn bản : Một Thiên Chúa yêu chúng ta vượt quá cái chết. Nói cách khác, Thiên Chúa quá yêu chúng ta nên không để chúng ra rơi vào hư vô. Nếu những ai Người đã tạo dựng, Áp-ra-ham chẳng hạn, buộc phải chết (theo nghĩa tuyệt diệt), thì tình yêu Thiên Chúa thất bại. Mỗi ngày, trong “Mười tám câu chúc tụng”, dân Do-thái ngợi ca Thiên Chúa vì làm “khiên thuẫn cho Áp-ra-ham”… và từ đó họ rút ra niềm tin về sự phục sinh trong thế giới mai hậu. Vì nói “Thiên Chúa của kẻ chết” đó là như nói “khiên thuẫn của một kẻ tử vong” : nếu y chết, tức khiên thuẫn của y không có hoặc đã chẳng dùng vào việc gì cho y cả.

Quả thế, sự sống vĩnh cửu đâu chỉ đơn giản kéo dài sự sống trần gian. Con bướm không phải là một con sâu đông lạnh nhanh, được bảo quản. Cây lúa chẳng phải là hạt lúa đã to lên và kéo dài. Sự sống vĩnh cửu là một hồng ân của Thiên Chúa, “hồng ân sự sống của Người”, thành ra là một sự cứu rỗi Người ban tặng vì yêu thương ! Và chúng ta tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Những ai chối bỏ sự sống lại đều luôn bắt đầu bầng việc có một ý tưởng hẹp hòi về Thiên Chúa, khi họ không thể chối bỏ Người hoàn toàn. Phần lớn thời gian, họ chối bỏ sự “Sáng tạo” (“từ hư vô”, theo thần học). Họ chối bỏ việc Đức Giê-su thành thai cách đồng trinh (“bởi phép Chúa Thánh Thần”). Còn tín hữu, cách đơn giản, tin tưởng vào tình yêu vô địch của Thiên Chúa.

Theo chân Đức Giê-su, hãy hoàn toàn từ khước việc tưởng tượng ra thế giới bên kia. Nhưng cùng với Người, hãy tin thực vào sự sống vĩnh cửu. Và chớ gì viễn ảnh tích cực bao la này làm biến dạng trọn vẹn nét tẻ nhạt, nét vô vị nơi cuộc sống thường nhật của ta.

Tác giả: Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây