Truyện ngắn: "Cái Chúa"[i]
Ngót hai mươi năm gắn bó với trại phong chắc hẳn là thời gian đủ để sơ Xuân trở thành một phần không thể thiếu của bao tâm hồn, nơi những mảnh đời chẳng may mắc phải căn bệnh đã từng trở thành nỗi ám ảnh cho nhân loại, căn bệnh mà Kinh Thánh luôn nói tới như một thứ ghê sợ, mà người bệnh bị coi là ô uế, bị loại trừ, tách biệt khỏi cộng đồng, đồng nghĩa với “chết”... Dù đã có thuốc điều trị và ngăn ngừa sự lây lan, gặm nhấm đáng sợ, nhưng bệnh phong hay tục hơn là bệnh hủi vẫn là một cái gì đó gây nên nơi người bệnh sự mặc cảm, cùng sự sợ hãi, khinh miệt, xa cách của con người, ngay cả người thân, để rồi những trại phong, nơi những tấm lòng cao cả như sơ Xuân phục vụ, trở thành chốn nương ẩn bình yên cho bao phận người chẳng may bị căn bệnh này viếng thăm. Nơi đây, mỗi con người là một nhân vị đúng nghĩa với đầy đủ phẩm giá, với một cuộc đời, một kiếp người, một chuỗi những câu chuyện mà nếu kể ra thật khó diễn tả hết trong một hay một vài cuốn sách. Nơi đây là nơi chứng kiến những phép lạ xảy ra mỗi ngày, nơi tình yêu của sự phục sinh lan tỏa, nơi mà những tiếng “ô uế ô uế” trong Kinh Thánh không có chỗ để hiện hữu, nhưng là những tiếng cười hạnh phúc, sự quan tâm của các sơ, cùng bao tấm lòng sẻ chia đối với những con người đau khổ. Cũng nơi đây, những người chung cảnh ngộ, vốn chẳng quen nhau, khác biệt về văn hóa, vùng miền, tôn giáo bỗng xích lại gần nhau, trở nên thân thiết, nên một gia đình, nơi mọi thành viên đều nhận được đồng cảm, tình yêu thương và đón nhận như những nhân vị đúng nghĩa và công bằng theo tinh thần Ki-tô giáo, chẳng phân biệt họ là ai và theo tôn giáo nào. Để rồi, khi đất đã hóa tâm hồn, mọi người coi nơi đây là nhà, là chốn yên nghỉ cuối cùng cho cuộc đời của mình, một cuộc đời tìm được ý nghĩa đích thực nơi cuối con đường…
Phục vụ nơi đây, với thân hình mảnh khảnh, nhưng đầy sức sống, một tâm hồn vui tươi, sơ Xuân hẳn phải là người có đầy Chúa, với một nghị lực phi thường của một đời sống nội tâm sâu sắc, mới có thể gắn bó đến mức có thể nói đã “nên một với đất và người nơi đây”. Ngay từ thời sinh viên, qua Kinh Thánh, sơ biết tới bệnh hủi cùng nỗi tủi hổ mà họ gặp phải; rồi qua các phương tiện truyền thông, sơ hiểu hơn về căn bệnh này, cùng với những phương thuốc giúp điều trị; và nhất là qua những cuộc thăm viếng các trại phong theo các hội nhóm như sinh viên Công giáo, hay giới trẻ Công giáo, sơ đã sớm chớm nở một tình yêu muốn phục vụ cho những con người đáng thương bị loại trừ này. Thế rồi, đáp lại tiếng Chúa gọi, để hiện thực hóa tình yêu mãnh liệt ấy, sơ để lại phía sau tất cả, sơ đi tu, vào nhà dòng khi mà tuổi đời và tương lai đầy hứa hẹn của một cô sinh viên ưa nhìn, lại có năng lực… Rồi ngay sau khi khấn trọn, chấp nhận trong mau mắn lời mời gọi của bề trên, sơ xin vâng và thể hiện tình yêu hy sinh phục vụ cho những người bị phong hủi tại trại phong mà nhà dòng đảm nhận. Hy sinh cả tuổi xuân của đời tu nơi các giáo xứ để phục vụ nơi trại phong heo hút này, những gì sơ nhận được có thể nói chẳng là gì nếu không có ơn Chúa, không có sức mạnh của Đấng Tình Quân mà sơ cam kết sống chết vì Ngài và vì hội Dòng. Cứ như vậy, thời gian nhẹ bước trôi, vậy mà vỏn vẹn hai mươn năm sơ gắn bó với đây, như một bà sơ, một người con, một người chị, rồi đến một người mẹ thiêng liêng, thầm lặng, nhưng vô cùng mãnh liệt với nhiều hoa trái thiêng liêng… Chắc chắn thời gian phục vụ nơi đây, ơn gọi của sơ Xuân được dệt nên bởi không ít niềm vui, nhưng cũng không thiếu những nỗi buồn, và cả những giọt nước mắt, những nỗi đau của sự hiểu lầm, của sự cô đơn, cùng những giây phút mệt mỏi khi gặp những thất bại, hay khi phải đối diện với những cái chết của nhiều bệnh nhân, những người nhà, những “anh chị em, những người mẹ” của sơ… Nhưng vượt lên tất cả, chính tình yêu Đức Ki-tô, Đấng đã chạm và chữa lành người phong hủi đã giúp sơ đứng vững trước những cơn cám dỗ bỏ cuộc, hay xin rút đi nhiệm sở mới. Để rồi, sơ chọn ở lại nơi đây, thay vì tìm đến một một chốn bình yên và nhiều niềm vui hơn.
***
Nhận được một cuộc gọi từ một số lạ... Sau vài câu trao đổi qua loa, là người quá kinh nghiệm và nhạy bén, sơ lập tức gọi xe để đến nơi mà có người đang cần sự trợ giúp của sơ. Cũng như bao lần trong hành trình phục vụ những người phong hủi, với những cuộc gọi, những liên hệ như thế, sơ lên đường và tìm đến với những con người đau khổ ấy, những người mà có lẽ sơ và trại phong chính là chốn neo đậu cuối cùng của niềm hy vọng. Lần này là một người đàn ông tên Y-buni, người dân tộc Ê-đê, gia cảnh nghèo khổ, vợ chết, con cái không thể làm gì hơn trước căn bệnh phong hủi đang dần gặm nhấn thân hình tiều tụy của Y-buni. Họ cùng dân Bản buộc phải để ông ra đi, tránh lây lan. Nhưng đi đâu bây giờ? Thật may qua người giới thiệu, họ biết đến với trại phong của sơ Xuân và nhờ người liên hệ với sơ. Cùng với các cộng tác viên, sơ Xuân tiếp cận, khuyên nhủ và thuyết phục, trước tiên là đưa ông đến bệnh viện chữa trị. Những lần tiếp cận, những cuộc gặp gỡ như thế đôi khi chẳng dễ dàng bởi sự hoài nghi, bởi sự đề phòng và cả sự cuồng nộ của những con người khốn khổ. Nhưng với sự kiên nhẫn phi thường, cùng một tình yêu đủ lớn, sơ Xuân luôn là người chiến thắng để rồi không ít phận người thoát khỏi lưỡi hái tử thần…
Sau một thời gian được điều trị tại bệnh viện, khi căn bệnh đã được chặn đứng không còn phát triển, sơ cùng đội ngũ của mình, thanh toán viện phí. Sơ đưa ông về nơi mái ấm là trại phong để tiếp tục chăm sóc, bởi với sự dị tật do di chứng của Y-buni, khả năng trở lại với cộng đồng là điều rất khó khăn. Thời gian đầu, như một kẻ hoàn toàn xa lạ, người đàn ông khép mình, thậm chí càu nhàu, nổi cáu, đòi về nhà. Với sự kiên nhẫn của một tâm hồn thực sự bao dung noi gương Thầy Giê-su, Đấng đã chạm đến tận cùng của sự kì thị bởi bệnh phong để chữa lành từng người và cho họ tự do của sự chữa lành không chỉ phần xác mà cả tâm hồn, sơ Xuân cũng cúi xuống để lau, để làm dịu lại bao nỗi đau không chỉ nơi thân xác nhưng hơn hết nơi tâm hồn bị tổn thương bởi sự mặc cảm, bởi sự bỏ rơi nơi những kiếp người chẳng may mắc phải căn bệnh quái ác này… Sơ phục vụ người đàn ông lạ lẫm này với một tinh thần vui tươi, dù ông có đề phòng, thậm chí xua đuổi sơ, chửi mắng sơ. Qua thời gian bằng tâm hồn hiền hậu, sơ kiên nhẫn với nụ cười thân thương, từng chút một, từng bước một, “nước chảy đá mòn”, người đàn ông người Thượng cục cằn ấy dần cảm thấy sự an toàn nơi sơ, nhất là cảm nhận được tình yêu và sự gần gũi đích thực không một chút kì thị nơi sơ. Ông mủi lòng và bắt đầu mở lời, bắt đầu từ những lời cám ơn, hỏi thăm cộc cằn, khô khốc cho tới những câu chuyện rời rạc không chủ đề, nhưng chân thành hơn. Những câu chuyện đời, chuyện gia đình, con cái, chuyện về bộ tộc, chuyện bản làng nơi ông là thành viên nhưng nay đã phải xa rời bởi căn bệnh đáng sợ này… Nói chung đủ thứ chuyện như để giãi bày tất cả về một huyền nhiệm đời người như bao người. Sơ Xuân kiên nhẫn lắng nghe, vui vui vì cuối cùng trái tim ông cũng đã mở ra, dù những câu chuyện ông kể nhiều khi thật rời rạc nếu không nói là nhạt thếch, lặp đi lặp lại, nhưng dù sao đó lại là những câu chuyện rất thật, rất chân thành của một con người… Cứ như thế, sau một thời gian, sơ đã trở thành người thân của ông. Ông cười, ông nói, ông vui như một đưa trẻ mỗi khi các sơ hiện diện. Ông bắt đầu mở lòng rồi trải lòng, làm quen với những người hàng xóm trước lạ sau quen của mình. Tâm hồn ông thay đổi, cuộc sống ông như thể được mặc lấy một ý nghĩa mới… Được nghe về các sơ, được chứng kiến công việc phục vụ của các sơ không chỉ cho ông nhưng cho mọi người nơi đây, ông cảm phục và mến mộ tấm lòng và tâm hồn ấy… Y-buni tò mò về sức mạnh nào giúp những con người tưởng như mỏng dòn yếu đuối ấy nên mạnh mẽ và đầy tình yêu như vậy với những kẻ bệnh tật như ông… Ông bắt đầu để ý, bắt đầu tìm hiểu về “cái gì đó” nơi các sơ…
Thời gian cứ vậy trôi, bầu khí nơi mái ấm trại phong như tươi mới hơn bởi sự hiện diện của một thành viên mới. Người đàn ông người Thượng đã cảm nhận đây là nhà của mình, ông không còn khăng khăng đòi về như thời gian đầu, dù con cái hay một vài người của Bản làng ông đến thăm. Được biết qua những người hàng xóm, rồi lõm bõm về cái sức mạnh giúp các sơ yêu thương ông như vậy, một lần Y-buni đánh bạo hỏi cho ra nhẽ. Khi sơ Xuân đến dọn dẹp, vệ sinh, chăm sóc, hỏi thăm ông như mọi ngày…
- Này! Ông cục cằn, giả bộ căng thẳng.
- Con chào ông, nay ông khỏe chứ? Sơ cười.
- Tao muốn hỏi mày chuyện này, mày có sẵn sàng trả lời cho tao biết không? Ông vẫn thái độ cộc cộc ấy.
- Ông có gì cho con à, nay con thấy ông lạ vậy? Sơ vẫn nhẹ nhàng, vừa dọn dẹp vừa tiếp chuyện ông
- Cái con này, mày nhìn tao xem, tay có năm ngót cụt ba rồi; trên răng ngót một nửa đi tong rồi, dưới thì dép cũng cái đực cái cái, thì có cái gì mà cho mày được. Ông cười nhẹ. Mày ngồi lại đây đi, tao hỏi mày cái này? Ông vời sơ lại, ánh mắt dịu xuống đầy chân thành
- Ngồi xuống chiếc ghế cũ kĩ nhưng chắc chắn, sơ hơi ngạc nhiên nhưng vẫn một nụ cười hiền. Dạ con đây, nay ông có chuyện gì muốn kể cho con nghe sao, mọi ngày con vẫn vừa dọn dẹp vừa nghe ông kể chuyện mà…
- Cái con này, nhưng nay tao có chuyện quan trọng muốn hỏi mày? Ông hơi bối rối.
- Dạ, ông cứ hỏi đi, con đang nghe ông đây!
- Sao, sao mày lại tốt với tao thế? Sao mày lại thương tao, chăm sóc tao tận tình như vậy? Ông hơi đỏ mặt, mặt không giấu nổi sự xấu hổ…
Sơ cười, một nụ cười thật thánh thiện và hồn nhiên.
- Ông ơi, đây là nhà con, những ai ở đây đều là người nhà. Con coi ông như bố của con vậy. Chúng con đều thương yêu và chăm sóc mọi người nơi đây vì đó là niềm vui, là ơn gọi của chúng con mà. Sơ Xuân giọng vui tươi.
- Nhưng tao thắc mắc không biết chúng mày có cái gì trong người mà dám sờ chạm, dám phục vụ chúng tao, những con người bệnh tật, hôi hám, mốc meo vì hủi với một tình yêu như vậy. Biết là giờ nó không lây nữa, nhưng chúng mày phải có cái gì mới đủ sức chăm sóc chúng tao như vậy. Chứ tao vẫn thế ghê ghê, ngay cả chính tao. Ông vẫn ngập ngừng, ấp úng, lắp bắp lặp ý.
- Đúng rồi, chúng con có một sức mạnh, một tình yêu trong tâm hồn đủ để chiến thắng tất cả sự sợ hãi, yếu đuối. Sức mạnh đó là “cái” mà chúng con gọi là Chúa. Chúng con có Chúa, Đấng ban sức mạnh và hằng yêu thương hết mọi người, Đấng chữa lành mọi tật nguyền cả trong tâm hồn. Chúng con luôn nhìn và tìm thấy nơi ông chính Ngài, để rồi chúng con phục vụ, chăm sóc ông như phục vụ chính Ngài. Thật sự con cũng không biết phải nói cho ông thế nào nữa nhưng chúng con có Chúa và với Chúa, chúng con yêu thương hết mọi người…
Ngần ngừ một lát, ông bạo miệng
- Vậy mày phải làm cho tao giống chúng mày đi!
- Ông cứ đùa, dạo này ông cũng biết nói đùa chúng con rồi cơ đấy? Làm sao ông giống chúng con được, chúng con là đàn bà, ông là đàn ông làm sao giống nhau được. Sơ lại cười khúc khích.
- Đùa cợt gì, mày cho tao cái làm cho chúng mày mạnh mẽ như vậy đấy, cái trong chúng mày đấy. Mày cho tao cái Chúa đi? Có được không? Ông già gãi đầu, tỏ vẻ hy vọng, lúng túng.
- À, thì ra là ông đang nói về đức tin của chúng con à? Cái này thì được, sứ mạng của chúng con là đưa cái Chúa đến mọi người. Nhưng không dễ đâu!
- Thì mày cứ cho tao đi, tao muốn cái Chúa để tao cũng giống chúng mày đấy. Ông già tỏ vẻ cương nghị, quyết tâm lạ thường.
- Vậy thì chúng con vui lòng lắm, nhưng mà phải từng bước một. Cái Chúa không phải cứ muốn là có ngay được: phải nghe, phải sống và phải cảm nghiệm về Ngài mới có được…
- Thì mày cứ cho đi, tao muốn có cái Chúa! Tao có thời gian mà. Cho tao gặp hắn đi, tao muốn nói chuyện với hắn và buộc hắn cho tao theo hắn! Phong thái của ông già thay đổi hẳn, vừa nghiêm nghị nhưng cũng hơi kì kì khiến sơ Xuân cười thành tiếng…
- Dạ, vậy thì chúng con sẵn lòng. Chỉ cần ông tin thôi! Sơ nhẹ nhàng, những giọng đầy tin tưởng.
Thế rồi từ hôm đó, sơ Xuân cùng các sơ thay nhau nói về Chúa, dạy cho Y-buni về Giáo lý Công giáo, rồi dạy ông từng câu kinh... Từ kinh ngạc, qua sự mơ hồ, lờ mờ đến tin, ông dần nhận ra Đức Ki-tô không chỉ trong sách vở hay lời các sơ, nhưng đặc biệt sống động nơi tâm hồn và đời sống của các sơ và những con người nơi đây. Ông quyết định trở lại đạo, xin được rửa tội, cứ nằng nặc nói chuyện với cái mà ông gọi là hắn – “cái Chúa, cái Giê-su” ấy khiến các sơ không khỏi buồn cười. Các sơ tận tình hướng dẫn, mời ông cùng tham gia các sinh hoạt tại nhà nguyện nhỏ nơi các sơ và những người cùng đức tin Công Giáo, hay cả những bệnh nhân không tôn giáo muốn lui tới để cầu nguyện, để nghe các sơ đọc Lời Chúa hay tham dự các Thánh Lễ với các cha... Ông được tham dự vào cộng đoàn nhỏ, nhưng ấm cúng và đầy cái Chúa đó, dù khi ấy ông còn rất mơ hồ về sự hiện diện của một Đấng Vô Hình…
Thế rồi, khi mọi thứ đã đủ chín muồi, trong một buổi chiều, Y-buni đến nhà nguyện sớm, trước cả các sơ. Ông đánh liều, mon men lên Nhà Tạm, ghé đầu vào nhà Chầu, thầm thĩ điều gì đó mà chỉ mình ông biết. Ông nói rồi cười, một nụ cười rất hồn nhiên và thánh thiện như thể ông đang tâm sự với một ai đó. Khi thấy các sơ đến, ông nhanh nhảu chạy ra chào các sơ, tay gãi đầu, rồi dõng dạc tuyên bố:
- Tao hỏi Nó rồi. Nó đồng ý rồi. Tao cũng đồng ý để nó ở trong tao và tao ở trong Nó. Y-buni khảng khái, tuy hơi lúng túng, ngại ngần.
Các sơ hơi ngỡ ngàng, nhưng nhanh chóng hiểu điều ông muốn nói. Các sơ rất hạnh phúc, nhất là sơ Xuân khi những nỗ lực nhỏ bé của các sơ lại sắp sinh hoa kết trái. Các sơ tiếp tục dạy đạo cho ông những điều căn bản cần thiết, nhất là giúp ông cảm nhận sâu sắc hơn đức tin và đời sống của một người tín hữu Công giáo. Sau khi thưa chuyện với Đức Giám mục và ngài hoan hỷ chấp nhận, các sơ tổ chức Thánh lễ gia nhập đạo cho ông, với sự chứng kiến và tham dự của các thành viên trong gia đình trại phong, cùng một số người trong gia đình ông cũng cùng đến để tham dự, chia vui…
Sau một chuỗi những tháng ngày tưởng như cuộc đời đã đi vào cuối đường hầm tăm tối bởi căn bệnh và bởi sự cách ly, giờ đây ông đã tìm thấy niềm tin và niềm hy vọng đích thực, khi có cái Chúa trong mình… Ông đã trở thành một người Công giáo, một tín hữu và là một người loan báo “cái Chúa” cho con cái và cho người khác. Không chỉ bằng lời, nhưng bằng một đời sống chứng tá, một tâm hồn đầy niềm vui và sự bình an của sự chữa lành và đầy “cái Chúa” mà ông đã đến, đã xem, đã thấy và đã tin qua những cộng tác viên của Ngài nơi ngôi nhà Trại Phong mà với ông đã trở thành nhà của mình…
[i] Dựa trên câu truyện có thật do cha giáo Giuse Phạm Văn Hiển thuật lại