Báo cáo GH hiệp hành trong sứ mạng truyền giáo

Thứ năm - 07/12/2023 10:19  587
 THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC LẦN THỨ XVI
Kỳ họp thứ nhất (4-29 tháng 10 năm 2023)
Báo cáo tổng hợp
GIÁO HỘI HIỆP HÀNH
TRONG SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO

MỤC LỤC
GIỚI THIỆU
PHẦN I:
DIỆN MẠO CỦA GIÁO HỘI HIỆP HÀNH

1. Tính hiệp hành: Kinh nghiệm và sự hiểu biết
2. Được quy tụ và được sai đi bởi Ba Ngôi Thiên Chúa
3. Gia nhập cộng đồng Đức tin: Khai tâm Kitô giáo
4. Người nghèo, những chủ thể trong hành trình của Giáo Hội
5. Một Giáo Hội "từ mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia"
6. Các Giáo Hội Đông phương và truyền thống Giáo Hội Latinh
7. Trên con đường hướng tới sự hiệp nhất Kitô giáo
PHẦN II:
TẤT CẢ LÀ MÔN ĐỆ, TẤT CẢ LÀ NHÀ TRUYỀN GIÁO

8. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo
9. Phụ nữ trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội
10. Đời sống thánh hiến và các hiệp hội và phong trào giáo dân: một dấu hiệu đặc sủng
11. Phó tế và Linh mục trong một Giáo Hội hiệp hành
12. Giám mục trong sự hiệp thông Giáo Hội
13. Giám mục Rôma trong Giám mục đoàn
PHẦN III:
DỆT NÊN LIÊN KẾT, XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN

14. Một cách tiếp cận đào tạo theo tinh thần hiệp hành
15. Sự phân định của Giáo Hội và những câu hỏi mở
16. Hướng tới một Giáo Hội lắng nghe và đồng hành
17. Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số
18. Cơ cấu tham gia
19. Các nhóm Giáo Hội trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội
20. Thượng Hội đồng Giám mục và Đại hội Giáo Hội
TIẾP TỤC CUỘC HÀNH TRÌNH

 


GIỚI THIỆU

 
Anh chị em thân mến,
"Tất cả chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" (1 Cr 12,13). Đây là kinh nghiệm tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn mà chúng tôi đã trải qua trong Kỳ họp thứ nhất của Thượng Hội đồng về hiệp hành[1] diễn ra từ ngày 4 đến ngày 29 tháng 10 năm 2023 với chủ đề: “Hướng tới một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ mạng". Bất chấp sự đa dạng về xuất xứ, ngôn ngữ và văn hóa, nhờ ân sủng chung của Bí tích Rửa tội, chúng tôi đã sống những ngày này cùng một tâm hồn và thần khí. Chúng tôi đã tìm cách hát như một ca đoàn với nhiều giọng hát nhưng diễn tả một linh hồn. Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng tôi một kinh nghiệm về sự hòa hợp mà chỉ duy nhất mình Ngài mới có thể tạo nên; đó là một hồng ân và là một chứng tá trong một thế giới bị chia rẽ và tan vỡ.
Hội nghị của chúng ta diễn ra trong bối cảnh các cuộc chiến tranh cũ và mới vẫn đang tiếp diễn trên thế giới, gây ra những hậu quả thảm khốc đối với vô số các nạn nhân. Tiếng kêu cứu của những người nghèo vang vọng giữa chúng ta, của những người buộc phải di cư và của những người chịu đựng bạo lực cùng với những hậu quả tàn phá của biến đổi khí hậu. Chúng ta đã nghe thấy tiếng kêu cứu của họ không chỉ qua các phương tiện truyền thông, mà còn qua tiếng nói thực tế của nhiều người có mặt, những người liên quan tới những bi kịch kinh hoàng dù qua gia đình hay dân tộc của họ. Tất cả chúng ta luôn luôn mang tiếng kêu cứu đó trong thâm tâm và lời cầu nguyện, tự hỏi Giáo Hội có thể xây dựng những con đường hòa giải, hy vọng, công lý và hòa bình như thế nào.
Cuộc họp của chúng tôi diễn ra tại Rôma, tập hợp quanh đấng kế vị Thánh Phêrô, người đã củng cố đức tin của chúng ta và khích lệ chúng ta mạnh dạn trong sứ mạng của mình. Thật là một hồng ân khi bắt đầu những ngày này bằng một đêm canh thức đại kết, trong đó các nhà lãnh đạo và đại diện của các Giáo Hội và cộng đồng Kitô giáo khác nhau cùng cầu nguyện với Đức Thánh Cha tại mộ Thánh Phêrô. Sự hiệp nhất một cách thầm lặng đang nảy sinh trong Hội Thánh của Thiên Chúa; chúng tôi tận mắt chứng kiến, và chúng tôi làm chứng cho điều đó trong niềm vui trọn vẹn. "Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau" (Tv 133,1).
Theo sự chỉ dẫn của Đức Thánh Cha, Hội nghị còn chứng kiến sự quy tụ của các thành phần khác trong Dân Thiên Chúa bên cạnh và xung quanh các giám mục. Các giám mục, hiệp nhất với nhau và với Giám mục Rôma, biểu lộ Giáo Hội như một sự hiệp thông của các Giáo Hội địa phương. Giáo dân, tu sĩ nam nữ, phó tế và linh mục, cùng với các giám mục, là những chứng nhân của một tiến trình có ý định liên kết đến toàn thể Giáo Hội và mỗi người trong Giáo Hội. Sự hiện diện của họ nhắc nhở chúng ta rằng Hội nghị không phải là một sự kiện đơn lẻ, nhưng là một phần không thể thiếu và là một bước cần thiết của tiến trình hiệp hành. Sự đa dạng, đa nguyên của các ý kiến và lập trường được bày tỏ trong Hội nghị cho thấy một Giáo Hội đang học cách nắm lấy phong cách hiệp hành và đang tìm kiếm những cách thức phù hợp nhất để thực hiện điều này.
Đã hơn hai năm kể từ khi chúng ta bắt đầu hành trình dẫn đến Kỳ họp này. Sau khi khai mạc tiến trình hiệp hành vào ngày 9 tháng 10 năm 2021, tất cả các Giáo Hội, mặc dù với tốc độ khác nhau, đã tham gia vào một tiến trình lắng nghe ở các giai đoạn giáo phận, quốc gia và lục địa, kết quả được ghi lại trong các tài liệu tương ứng của họ. Kỳ họp này mở ra giai đoạn mà toàn thể Giáo Hội tiếp nhận những kết quả tham vấn để phân định, qua cầu nguyện và đối thoại, con đường mà Chúa Thánh Thần đang yêu cầu chúng ta tiến tới. Giai đoạn này sẽ kéo dài đến tháng 10/2024, khi Kỳ họp thứ hai của Hội nghị sẽ hoàn tất công việc để trình lên Đức Thánh Cha.
Toàn bộ hành trình, phát xuất từ Truyền Thống của Giáo Hội, đang diễn ra dưới ánh sáng của giáo huấn công đồng. Thật vậy, Công đồng Vatican II giống như một hạt giống được gieo trên cánh đồng thế giới và Giáo Hội. Mảnh đất nơi hạt giống nảy mầm và phát triển là đời sống hàng ngày của các tín hữu, kinh nghiệm của các Giáo Hội của mọi dân tộc và nền văn hóa, những chứng tá về sự thánh thiện, và những suy tư của các nhà thần học. Thượng Hội đồng 2021-2024 tiếp tục rút ra năng lượng từ hạt giống đó và phát triển tiềm năng của nó. Thật vậy, con đường hiệp hành là thực hiện những gì Công Đồng đã dạy về Giáo Hội như là Mầu Nhiệm và Dân Thiên Chúa, được kêu gọi nên thánh. Đường lối này đánh giá cao sự đóng góp của tất cả những người đã được rửa tội, theo ơn gọi tương ứng của họ, trong việc giúp chúng ta hiểu rõ và thực hành Tin Mừng tốt hơn. Theo nghĩa này, đường lối hiệp hành là một hành động tiếp nhận Công Đồng một cách chân chính, kéo dài nguồn cảm hứng của Công Đồng và làm khơi dậy sức mạnh ngôn sứ cho thế giới ngày nay.
Sau một tháng làm việc, giờ đây Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi trở lại các Giáo Hội của mình để trao lại cho tất cả anh chị em những kết quả của công việc và tiếp tục cuộc hành trình cùng nhau. Ở đây tại Rôma, chúng tôi không có nhiều người, nhưng mục đích của con đường hiệp hành được Đức Thánh Cha kêu gọi là liên kết tất cả những người đã được rửa tội. Chúng tôi tha thiết mong muốn điều này xảy ra và muốn cam kết biến nó thành hiện thực. Trong Báo cáo Tổng hợp này, chúng tôi đã thu thập các yếu tố chính xuất hiện trong đối thoại, cầu nguyện và thảo luận những ngày qua. Câu chuyện cá nhân của mỗi người sẽ làm phong phú thêm sự tổng hợp này với bằng cách truyền đạt tổng hợp các kinh nghiệm, điều mà không tài liệu nào có thể ghi lại đầy đủ. Do đó, chúng tôi sẽ có thể làm chứng tá cho sự phong phú trong kinh nghiệm lắng nghe, thinh lặng, chia sẻ, và cầu nguyện. Chúng tôi cũng sẽ chia sẻ rằng không dễ để lắng nghe những ý kiến khác nhau, mà không ngay lập tức rơi vào cám dỗ muốn phản biện; hoặc đóng góp ý kiến như thể làm ơn cho người khác chứ không phải điều gì đó tuyệt đối hoặc chắc chắn. Tuy nhiên, ân sủng của Thiên Chúa đã giúp chúng tôi đạt được điều này, bất chấp những giới hạn của mình, và điều này đối với chúng tôi là một kinh nghiệm thực sự về tính hiệp hành. Thông qua việc thực hành, chúng tôi hiểu nó tốt hơn và nắm bắt được giá trị của nó.
Thật vậy, chúng tôi hiểu rằng việc cùng nhau bước đi như những người đã được rửa tội, trong sự đa dạng về các đặc sủng, ơn gọi và công việc mục vụ, là điều quan trọng không chỉ đối với các cộng đoàn của chúng ta, mà còn đối với cả thế giới. Tình liên đới theo tinh thần Tin Mừng giống như một ngọn đèn, không nên đặt dưới gầm bàn, mà phải đặt trên một giá đèn cho ánh sáng soi rọi khắp nhà (x. Mt 5,15).
Ngày nay, thế giới cần chứng tá này hơn bao giờ hết. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm minh chứng và truyền đạt tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa cho nhân loại đầy tổn thương. Công việc của kỳ họp này được tiến hành theo 'lộ trình' được đặt ra trong Tài Liệu Làm Việc, qua đó Hội nghị có thể suy tư về các dấu chỉ đặc trưng của một Giáo Hội hiệp hành và các động lực của sự hiệp thông, sứ mạng và sự tham gia mà nó chứa đựng. Chúng tôi thảo luận về giá trị của các vấn đề, xác định những chủ đề cần nghiên cứu sâu hơn và đưa ra một bộ đề xuất sơ bộ. Dựa trên những tiến bộ đã đạt được, Báo cáo tổng hợp không lặp lại hay nhắc lại tất cả các nội dung của Tài Liệu Làm Việc; thay vào đó, nó mang lại động lực mới cho những câu hỏi và chủ đề mà chúng tôi đánh giá là cần ưu tiên. Đây không phải là một văn kiện cuối cùng, nhưng là công cụ phục vụ cho sự phân định liên tục.
Báo cáo tổng hợp được cấu trúc thành ba phần. Phần đầu tiên mô tả "diện mạo của Giáo Hội hiệp hành", trình bày thực hành và hiểu biết về tính hiệp hành cùng nền tảng thần học của nó. Ở đây, trước hết và quan trọng nhất, tính hiệp hành được trình bày như một kinh nghiệm thiêng liêng bắt nguồn từ việc chiêm niệm về Ba Ngôi và được thể hiện qua việc diễn đạt sự hiệp nhất và đa dạng trong Giáo Hội. Phần thứ hai, mang tựa đề "Tất cả là môn đệ, tất cả là các nhà thừa sai", đề cập đến tất cả những người tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo Hội cùng mối liên hệ giữa họ với nhau. Trong phần này, tính hiệp hành chủ yếu được trình bày như một hành trình chung của Dân Thiên Chúa và như một cuộc đối thoại hiệu quả giữa các đặc sủng và sứ mạng, phục vụ cho Nước Trời ngự đến. Phần thứ ba mang tựa đề "Dệt nên liên kết, xây dựng cộng đoàn". Ở đây, tính hiệp hành được trình bày chủ yếu như một tập hợp các tiến trình và một mạng lưới các tổ chức cho phép sự trao đổi giữa các Giáo Hội cũng như đối thoại với thế giới.
Trong mỗi phần, các chương riêng biệt tập hợp lại các ý kiến được đúc kết, các vấn đề cần xem xét và các đề nghị nảy sinh từ cuộc đối thoại. Đúc kết các ý kiến xác định các nội dung cụ thể để định hướng suy tư, tựa như một bản đồ giúp chúng ta định hướng lộ trình. Các vấn đề cần xem xét tóm tắt những khía cạnh cần thiết cần tìm hiểu sâu hơn về mặt mục vụ, thần học và giáo luật. Điều này giống như đang đứng ở ngã tư đường, nơi chúng ta cần phải tạm dừng lại để có thể hiểu rõ hơn về phương hướng mà chúng ta cần phải đi. Các đề xuất chỉ ra những lộ trình có thể đi theo. Một số được gợi ý, một số được khuyến khích, một số khác được yêu cầu với sức mạnh và quyết tâm nhất định.
Trong những tháng sắp tới, các Hội đồng Giám mục cũng như các cơ cấu phẩm trật của các Giáo Hội Công giáo Đông phương, với vai trò là cầu nối giữa các Giáo Hội địa phương và Ban thư ký Thượng Hội đồng, sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các suy tư của chúng ta. Xuất phát từ những điểm đúc kết ý kiến đã đạt được, các tổ chức này được mời gọi tập trung vào những câu hỏi và đề xuất được coi là cấp bách nhất. Họ được yêu cầu khuyến khích tìm hiểu các vấn đề cả về mặt mục vụ và thần học, và chỉ ra những hệ luận của chúng về mặt giáo luật.
Chúng tôi mang trong lòng ước muốn, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, rằng bầu khí lắng nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành mà chúng tôi đã trải nghiệm trong những ngày làm việc chung ở Rôma sẽ tỏa sáng trong các cộng đồng của chúng ta và khắp nơi trên toàn thế giới, để phục vụ cho sự lớn lên của hạt giống tốt lành của Nước Thiên Chúa.




 
PHẦN I:
DIỆN MẠO CỦA GIÁO HỘI HIỆP HÀNH

1. Tính hiệp hành: Kinh nghiệm và sự hiểu biết
Đúc kết các ý kiến
a) Chúng ta hoan nghênh lời mời gọi nhận ra chiều kích hiệp hành của Giáo Hội với một ý thức mới. Thực hành hiệp hành đã được chứng thực trong Tân Ước và Hội Thánh sơ khai, mang những hình thức lịch sử cụ thể trong các Giáo Hội và truyền thống khác nhau. Công đồng Vatican II "cập nhật" thực hành này, và Đức Thánh Cha Phanxicô đã một lần nữa khuyến khích Giáo Hội đổi mới nó. Thượng Hội đồng 2021-2024 là một phần của sự đổi mới này. Qua đó, Dân Thánh của Thiên Chúa đã khám phá ra rằng một cách thức hiệp hành để thinh lặng, cầu nguyện, lắng nghe và lên tiếng, bắt nguồn từ Lời Chúa và trong những cuộc gặp gỡ đầy niềm vui, dù đôi khi cũng đau đớn, sẽ dẫn đến một nhận thức sâu sắc hơn rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em trong Đức Kitô. Một kết quả vô giá của tiến trình này là nâng cao nhận thức về căn tính của chúng ta là Dân trung tín của Thiên Chúa, trong đó mỗi người mang phẩm giá bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội, và mỗi người được mời gọi tham gia đồng trách nhiệm khác nhau cho sứ mạng chung của việc loan báo Tin Mừng.
b) Tiến trình này đã đổi mới kinh nghiệm và khát vọng của chúng ta đối với Giáo Hội như là ngôi nhà và gia đình của Thiên Chúa, một Giáo Hội gần gũi hơn với đời sống của Dân Chúa, ít quan liêu hơn và trở nên hòa đồng gắn kết hơn. Các thuật ngữ "tính hiệp hành" và "hiệp hành" đã được gắn liền với kinh nghiệm và khát vọng này, mang lại một hiểu biết mà giờ đây đòi hỏi phải được làm sáng tỏ thêm. Đây chính là Giáo Hội mà những người trẻ tuổi đã tuyên bố họ mong muốn vào năm 2018 nhân dịp Thượng Hội đồng về Giới trẻ.
c) Cách thức mà Hội nghị diễn ra trong Hội trường Phaolô VI, kể cả việc bố trí chỗ ngồi cho mọi người thành các nhóm nhỏ quanh các bàn tròn, đối với một số nền văn hóa đã được ví như hình ảnh của tiệc cưới trong Kinh Thánh (Kh 19,9). Điều này được hiểu như là biểu trưng cho cách thức tồn tại theo kiểu hiệp hành của Giáo Hội và một hình ảnh Thánh Thể, là nguồn mạch và đỉnh cao của tính hiệp hành, với Lời Chúa ở trung tâm. Trong một Giáo Hội sống theo tinh thần hiệp hành, các nền văn hóa, ngôn ngữ, nghi lễ, cách suy nghĩ, và các thực tại khác nhau có thể cùng nhau tham gia một cách hiệu quả vào việc chân thành tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
d) Trong Hội nghị của chúng tôi, có sự hiện diện của anh chị em đến từ các vùng đất bị tàn phá bởi chiến tranh, chịu tử đạo, bị bách hại và nạn đói kém dày vò. Mặc dù đa số người dân của họ không thể thường xuyên tham gia vào tiến trình hiệp hành nhưng hoàn cảnh khó khăn của họ đã trở thành một phần trong chu trình thảo luận và cầu nguyện của chúng tôi, làm sâu sắc thêm ý thức hiệp thông của chúng tôi với họ và quyết tâm của chúng ta để trở thành những người kiến tạo hòa bình.
e) Hội nghị thường xuyên nói về hy vọng, chữa lành, hòa giải và phục hồi lòng tin là những hồng ân mà Chúa Thánh Thần đã tuôn đổ trên Giáo Hội trong tiến trình hiệp hành này. Việc cởi mở lắng nghe và đồng hành với tất cả mọi người, kể cả những ai đã phải chịu lạm dụng và tổn thương trong Giáo Hội, khiến nhiều người từ lâu cảm thấy bị bỏ rơi nay được chú ý tới. Hành trình dài hướng tới hòa giải và công lý, bao gồm việc giải quyết các yếu tố cấu trúc tiếp tay cho sự lạm dụng như vậy, vẫn còn phía trước chúng ta và đòi hỏi những hành động sám hối cụ thể.
f) Chúng ta biết rằng "tính hiệp hành " là một thuật ngữ xa lạ với nhiều thành phần Dân Chúa, gây ra một số sự nhầm lẫn và lo ngại. Trong số những nỗi sợ hãi được bày tỏ, có lo lắng rằng giáo huấn của Giáo Hội sẽ bị thay đổi, khiến chúng ta rời xa đức tin Tông truyền của các lớp tiền nhân và do đó, thất bại trong việc đáp ứng nhu cầu của những ai đói khát Thiên Chúa ngày nay. Tuy nhiên, chúng tôi tin tưởng rằng tính hiệp hành là một biểu hiện của Truyền thống năng động và sống động.
g) Không phủ nhận tầm quan trọng của nền dân chủ đại diện, Đức Thánh Cha Phanxicô đáp lại mối quan ngại của một số người rằng Thượng Hội đồng có thể trở thành một cơ quan ra quyết định theo đa số, tước đi đặc tính Giáo Hội và thiêng liêng của nó, do đó gây nguy hiểm cho bản chất phẩm trật của Giáo Hội. Rõ ràng là một số người sợ họ bị buộc phải thay đổi; những người khác lo sợ sẽ không có gì thay đổi cả hoặc không đủ can đảm để để tiến nhanh theo tốc độ của Truyền thống sống động. Ngoài ra, sự bối rối và phản đối đôi khi có thể che giấu nỗi sợ mất quyền lực và đặc quyền đi kèm. Tuy nhiên, trong mọi bối cảnh văn hóa, các thuật ngữ "hiệp hành" và "Tính hiệp hành" nói lên cách thức hiện hữu của Giáo Hội tích hợp sự hiệp thông, sứ mạng, và tham gia. Một ví dụ là Hội nghị Giáo Hội Amazon (CEAMA), một hoa trái của tiến trình hiệp hành trong khu vực.
h) Theo nghĩa rộng nhất, tính hiệp hành có thể được hiểu là các Kitô hữu bước đi trong sự hiệp thông với Chúa Kitô hướng về Nước Trời cùng với toàn thể nhân loại. Định hướng của nó là hướng tới sứ mạng và việc thực hành của nó liên quan đến việc quy tụ trong các hội nghị ở mọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Nó liên quan đến lắng nghe lẫn nhau, đối thoại, phân định cộng đoàn và tạo ra sự đồng thuận như một cách thế diễn tả Đức Kitô hiện diện trong Chúa Thánh Thần, mỗi người đưa ra quyết định phù hợp với trách nhiệm của mình.
i) Thông qua kinh nghiệm và những cuộc gặp gỡ, chúng ta đã cùng nhau lớn lên trong nhận thức này. Tóm lại, ngay từ những ngày đầu tiên, Hội nghị đã được định hình bởi hai xác tín: thứ nhất là kinh nghiệm chúng ta đã chia sẻ trong suốt những năm qua là một trải nghiệm đích thực của Kitô giáo và nên được đón nhận đầy đủ trong sự phong phú và sâu sắc của nó; thứ hai là các thuật ngữ "hiệp hành" và "tính hiệp hành" đòi hỏi phải làm rõ chính xác hơn các cấp độ ý nghĩa của chúng trong các nền văn hóa khác nhau. Sự đồng thuận cơ bản đã xuất hiện, với sự làm sáng tỏ cần thiết, tính hiệp hành đại diện cho tương lai của Giáo Hội.
Các vấn đề cần xem xét
j) Dựa trên nền tảng công việc suy tư đã được tiến hành, cần làm rõ ý nghĩa của tính hiệp hành ở các cấp độ khác nhau, về khía cạnh mục vụ, thần học và giáo luật. Điều này giúp tránh nguy cơ khái niệm hiệp hành nghe có vẻ quá mơ hồ hoặc chung chung hoặc xuất hiện như một mốt nhất thời hoặc xu hướng chóng qua. Nó cho phép chúng ta đề xuất một sự hiểu biết rộng rãi về việc đồng hành cùng nhau với sự tìm hiểu sâu sắc hơn và làm sáng tỏ về mặt thần học hơn nữa. Tương tự, cần phải làm rõ mối liên hệ giữa tính hiệp hành và hiệp thông cũng giữa tính hiệp hành và tính hiệp đoàn (collegiality).
k) Một mong muốn nảy sinh nhằm tăng cường sự hiểu biết và đánh giá cao những khác biệt trong thực hành và hiểu biết về tính hiệp hành giữa truyền thống của Kitô giáo Đông phương và truyền thông Latinh, kể cả trong tiến trình hiệp hành đang diễn ra này, bằng cách thúc đẩy các cuộc gặp gỡ giữa hai truyền thống.
l) Đặc biệt, cần cân nhắc để suy tư sâu hơn về nhiều cách biểu hiện đời sống hiệp hành trong bối cảnh văn hóa nơi người ta quen với việc cùng cùng nhau bước đi như một cộng đồng gắn kết và nơi mà chủ nghĩa cá nhân chưa bén rễ. Theo cách này, thực hành hiệp hành đóng một vai trò quan trọng trong phản ứng mang tính ngôn sứ của Giáo Hội đối với chủ nghĩa cá nhân khiến con người quay vào bản thân, chủ nghĩa dân túy chia rẽ, và toàn cầu hóa đồng nhất và san bằng mọi thứ. Mặc dù không giải quyết được những vấn đề này, nó vẫn cung cấp một cách thức hiện hữu và hành động khác cho thời đại của chúng ta, kết hợp đa dạng các quan điểm khác nhau. Đây là một giải pháp thay thế đầy hy vọng cần được khám phá và làm sáng tỏ thêm.

Đề nghị
m) Sự phong phú và sâu sắc của tiến trình hiệp hành cho thấy giá trị của việc mở rộng sự tham gia, và vượt qua những trở ngại để tham gia đã xuất hiện cho đến nay.
n) Cần phải tìm cách mời gọi hàng giáo sĩ (phó tế, linh mục, giám mục) tham gia tích cực hơn vào tiến trình hiệp hành trong suốt năm tới. Một Giáo Hội hiệp hành không thể thiếu tiếng nói, kinh nghiệm hay sự đóng góp của họ. Chúng ta cần hiểu rõ hơn lý do tại sao một số người có cảm thấy kháng cự lại tiến trình hiệp hành.
o) Văn hóa hiệp hành cần phải trở nên liên thế hệ hơn, với những không gian cho người trẻ được nói lên tiếng nói của mình một cách tự do, trong gia đình, với bạn bè và cha xứ của họ, bao gồm cả việc thông qua các kênh truyền thông kỹ thuật số.
p) Hội nghị đề nghị thúc đẩy việc tìm hiểu sâu hơn về khái niệm và thực hành tính hiệp hành trước kỳ họp thứ hai trên phương diện thần học, dựa trên di sản phong phú của nghiên cứu thần học kể từ Công đồng Vatican II và đặc biệt là các tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc tế về tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội (2018) và Sensus fidei - cảm thức đức tin - trong đời sống Giáo Hội (2014).
q) Các hệ quả về mặt giáo luật của tính hiệp hành cũng cần được làm sáng tỏ cách tương tự. Đối với những điều này, chúng tôi cũng đề xuất thành lập một ủy ban đặc biệt liên lục địa gồm các chuyên gia thần học và giáo luật, trước Kỳ họp thứ hai của Đại hội.
r) Cuối cùng, việc sửa đổi rộng rãi hơn Bộ Giáo Luật và Bộ Giáo Luật của các Giáo Hội Phương Đông Các nhà thờ được đề xuất vào thời điểm này. Do đó, cần có một nghiên cứu sơ bộ.

2. Được quy tụ và được sai đi bởi Ba Ngôi Thiên Chúa
Đúc kết các ý kiến
a) Theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, Giáo Hội là "một dân được quy tụ lại với nhau nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (LG 4). Chúa Cha, qua sứ mạng của Chúa Con và ơn huệ của Chúa Thánh Thần, liên kết chúng ta vào một động lực hiệp thông và sứ mạng đưa chúng ta đi từ cái "tôi" đến cái "chúng ta" và đặt chúng ta phục vụ thế giới. Tính hiệp hành diễn tả diễn tả động lực Ba Ngôi mà qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ nhân loại thành các thái độ tâm linh và các tiến trình của Giáo Hội. Để điều này xảy ra, điều cần thiết là tất cả những người đã được rửa tội phải cam kết thực thi ơn gọi, đặc sủng và sứ mạng của họ. Chỉ bằng cách này, Giáo Hội mới có thể thực sự trở thành một "cuộc đối thoại" (x. Ecclesiam suam, số 67) bên trong chính mình và với thế giới bên ngoài, bước đi bên cạnh mọi con người theo phong cách của Chúa Giêsu.
b) Ngay từ đầu, hành trình hiệp hành của Giáo Hội hướng tới Nước Trời, một hành trình sẽ được hoàn thành trọn vẹn khi Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự. Chứng tá của tình huynh đệ Giáo Hội và sự tận hiến thừa sai để phục vụ những người bé mọn nhất sẽ không bao giờ sánh được với Mầu nhiệm mà chúng cũng là một dấu chỉ và công cụ. Giáo Hội không suy tư về cấu trúc hiệp hành để đặt mình vào trung tâm của việc rao giảng, mà là để thực hiện tốt nhất công việc phục vụ cho sự ngự đến của Nước Trời, thậm chí trong sự bất toàn vốn có của mình.
c) Việc canh tân cộng đồng Kitô hữu chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhận ra tính chủ đạo của ân sủng. Nếu thiếu độ sâu về chiều kích thiêng liêng, tính hiệp hành sẽ chỉ còn là hình thức. Tuy nhiên, điều chúng ta được kêu gọi không chỉ là chuyển tải các kinh nghiệm thiêng liêng đạt được ở nơi khác thành các quy trình cho cộng đoàn, mà còn sâu xa hơn, là để trải nghiệm các mối quan hệ hỗ tương là nơi chốn và hình thức của một cuộc gặp gỡ chân thật với Thiên Chúa. Theo nghĩa này, trong khi dựa trên di sản tinh thần phong phú của Truyền thống, quan điểm hiệp hành góp phần đổi mới các hình thức của nó: lời cầu nguyện mở ra cho sự tham gia, sự phân định được thực hiện cùng nhau, và năng lượng truyền giáo phát sinh từ việc chia sẻ và tỏa sáng dưới hình thức phục vụ.
d) Đối thoại trong Thần Khí là một công cụ nhưng cho phép lắng nghe chân thành để phân định những gì Chúa Thánh Thần đang nói với các Giáo Hội. Việc thực hành đối thoại đã đem lại niềm vui, sự ngỡ ngàng và lòng biết ơn và đã được trải nghiệm như một con đường canh tân biến đổi các cá nhân, các nhóm và Giáo Hội. Từ "đối thoại" diễn tả nhiều hơn là nói chuyện đơn thuần: nó đan xen suy nghĩ và cảm xúc, tạo ra một không gian sống chung được chia sẻ. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói rằng sự hoán cải đang diễn ra trong cuộc đối thoại. Đây là một thực tại nhân chủng học được tìm thấy trong các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, những người tập trung lại với nhau trong tình đoàn kết để giải quyết và quyết định các vấn đề quan trọng đối với cộng đồng. Ân sủng làm trọn vẹn kinh nghiệm nhân loại này. Đối thoại "trong Thần Khí" có nghĩa là sống kinh nghiệm chia sẻ trong ánh sáng đức tin và tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa trong một bầu khí Tin Mừng đích thực nơi tiếng nói không thể nhầm lẫn của Chúa Thánh Thần có thể được nghe thấy.
e) Vì tính hiệp hành được hướng đến sứ mạng, nên các cộng đồng Kitô hữu phải tham gia vào tình liên đới với những người thuộc các tôn giáo, niềm tin và văn hóa khác, do đó tránh, một mặt, nguy cơ tự quy chiếu và tự bảo tồn, và mặt khác, nguy cơ mất đi bản sắc. Logic của đối thoại, được diễn tả trong việc học hỏi lẫn nhau và cùng đồng hành phải trở thành đặc trưng của việc loan báo Tin Mừng, phục vụ những người nghèo khó, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và nghiên cứu thần học.
Các vấn đề cần xem xét
f) Để thực hiện sự lắng nghe thực sự ý muốn của Chúa Cha, cần phải làm sâu sắc thêm các tiêu chí phân định của Giáo Hội từ góc độ thần học để việc tham chiếu đến sự tự do và tính mới mẻ của Chúa Thánh Thần được phối hợp một cách thích hợp với thực tế rằng Chúa Giêsu Kitô đến "một lần là đủ" (Hr 10,10). Trước hết, điều này ngụ ý xác định mối liên hệ giữa việc lắng nghe Lời Chúa được chứng thực trong Thánh Kinh, việc tiếp nhận Truyền thống và Huấn Quyền của Giáo Hội, và việc đọc các dấu chỉ của thời đại.
g) Để đạt được mục tiêu này, điều quan trọng là phải thúc đẩy các tầm nhìn nhân học và thiêng liêng có khả năng tích hợp và không chỉ đơn thuần đặt cạnh nhau các chiều kích trí tuệ và cảm xúc của kinh nghiệm đức tin, vượt qua bất kỳ khuynh hướng giản lược và nhị nguyên giữa lý trí và cảm xúc.
h) Quan trọng là phải làm sáng tỏ cách thức cuộc đối thoại trong Thần Khí có thể tích hợp những đóng góp của tư tưởng thần học và khoa học xã hội và nhân văn, cùng các mô hình phân định khác của Giáo Hội được sử dụng như cách tiếp cận "quan sát, phán đoán, hành động" hoặc các bước "nhận ra, giải thích, lựa chọn".
i) Những đóng góp mà Lectio Divina và các truyền thống linh đạo khác nhau, cổ xưa và gần đây, có thể cung cấp cho việc thực hành phân định nên được phát triển. Thật vậy, thật thích hợp để đánh giá cao sự đa dạng của các hình thức và phong cách, phương pháp và tiêu chí mà Chúa Thánh Thần đã gợi ý qua nhiều thế kỷ và là một phần của di sản thiêng liêng của Giáo Hội.
Các đề xuất
k) Đề xuất rằng các Giáo Hội nên thử nghiệm và điều chỉnh việc đối thoại trong Thần Khí, cũng các hình thức phân định khác theo cách mà họ coi là phù hợp, lấy cảm hứng từ nhiều truyền thống tâm linh đa dạng liên quan đến nhu cầu và văn hóa của các bối cảnh cụ thể. Các hình thức đồng hành thích hợp có thể tạo điều kiện thuận lợi cho thực hành này, giúp nắm bắt logic của nó và vượt qua những kháng cự có thể xảy ra.
l) Mỗi Giáo Hội địa phương được khuyến khích trang bị cho mình những người thích hợp được đào tạo để hỗ trợ và đồng hành trong các quá trình phân định của Giáo Hội.
m) Để làm sáng tỏ đời sống Giáo Hội, việc thực hành phân định có thể được áp dụng một cách hữu ích trong lĩnh vực mục vụ, theo cách thức phù hợp với từng bối cảnh. Điều này sẽ làm cho chúng ta có thể dễ dàng nhận ra các đặc sủng hiện diện trong cộng đoàn, để ủy thác các nhiệm vụ và sứ mạng một cách khôn ngoan. Vượt qua việc chỉ lên kế hoạch hoạt động đơn thuần, chúng ta sẽ có thể hoạch định những lộ trình mục vụ trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
3. Gia nhập cộng đồng Đức tin: Khai tâm Kitô giáo
Đúc kết các ý kiến
a) Khai tâm Kitô giáo là cuộc hành trình mà Thiên Chúa, qua thừa tác vụ của Giáo Hội, giới thiệu chúng ta nhận biết đức tin Phục sinh và mở lối cho chúng ta bước vào sự hiệp thông mang chiều kích Ba Ngôi và Giáo Hội. Cuộc hành trình này có nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi bắt đầu và những điểm nhấn khác nhau đặc trưng của truyền thống phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, việc lắng nghe Lời Chúa và hoán cải đời sống, cử hành phụng vụ và sự tham gia vào cộng đoàn cùng với sứ mạng của nó luôn gắn bó với nhau. Chính vì lý do này, hành trình dự tòng với sự tiệm tiến của các giai đoạn và bước đi, là mô hình cho mọi kinh nghiệm của Giáo Hội về việc cùng nhau bước đi.
b) Việc khai tâm đưa chúng ta tiếp xúc với rất nhiều ơn gọi và thừa tác vụ trong Giáo Hội. Tất cả những điều này diễn tả khuôn mặt từ mẫu của Giáo Hội, một chứng tá thực tế dạy con cái mình bước đi bằng cách bước đi với chúng. Giáo Hội lắng nghe mọi thành phần và, khi trả lời những nghi ngờ và câu hỏi của họ, Giáo Hội được làm phong phú bởi sự mới mẻ mà mỗi người mang lại qua lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa của họ. Qua hoạt động mục vụ này, cộng đoàn Kitô hữu gặp gỡ tính hiệp hành lần đầu tiên, mà thường không hoàn toàn ý thức được điều đó.
c) Trước bất kỳ sự phân biệt nào về đặc sủng và thừa tác vụ, "tất cả chúng ta đều được rửa tội bởi một Thánh Thần để trở thành một thân thể" (1Cr 12,13). Do đó, giữa tất cả những người đã được rửa tội, có một sự bình đẳng thực sự về phẩm giá và trách nhiệm chung đối với sứ mạng, tùy theo ơn gọi của mỗi người. Nhờ sự xức dầu của Chúa Thánh Thần, Đấng " dạy mọi sự" (1Ga 2,27), tất cả các tín hữu đều có một bản năng tiếp nhận sự thật của Tin Mừng, cảm thức đức tin. Điều này bao gồm một sự đồng nhất tự nhiên nào đó với các thực tại thiêng liêng và khả năng nắm bắt những gì phù hợp với chân lý đức tin bằng trực giác. Các tiến trình hiệp hành làm tăng cường hồng ân này, cho phép sự đồng thuận của các tín hữu (consensus fidelium) được xác nhận. Tiến trình này cung cấp một tiêu chuẩn chắc chắn để xác định xem một học thuyết hay thực hành cụ thể có thuộc về đức tin tông truyền hay không.
d) Ân sủng của Lễ Hiện Xuống vẫn hiện hữu trong Giáo Hội qua Bí Tích Thêm Sức. Nó làm phong phú các tín hữu với sự dồi dào của các ân huệ của Chúa Thánh Thần. Nó kêu gọi họ phát triển ơn gọi riêng biệt của họ, bắt nguồn từ phẩm giá của bí tích rửa tội mà họ đã lãnh nhận, trong sứ mạng truyền giáo. Tầm quan trọng của nó đòi hỏi phải được nhấn mạnh nhiều hơn và cần được đặt trong mối quan hệ với sự đa dạng của các ân sủng và thừa tác vụ tạo nên diện mạo hiệp hành của Giáo Hội.
e) Việc cử hành Thánh Thể, đặc biệt là vào Chúa Nhật, là hình thức đầu tiên và cơ bản mà qua đó Dân Thánh của Thiên Chúa quy tụ và gặp gỡ nhau. Khi điều này không thể thực hiện được, cộng đoàn vẫn quy tụ lại để cử hành Phụng vụ Lời Chúa. Trong Thánh Thể, chúng ta cử hành mầu nhiệm ân sủng được ban cho chúng ta. Bằng cách kêu gọi chúng ta tham dự vào Mình và Máu của Người, Thiên Chúa biến chúng ta thành một thân thể, với nhau và với chính Người. Bắt đầu với việc Thánh Phaolô sử dụng thuật ngữ koinonia (x. 1Cr 10,16-17), truyền thống Kitô giáo đã trân trọng từ "hiệp thông" để chỉ sự tham gia đầy đủ vào Bí tích Thánh Thể, và bản chất của các mối quan hệ giữa các tín hữu và giữa các Giáo Hội. Trong khi nó mở ra cho chúng ta sự suy ngắm về đời sống thiêng liêng, đến chiều sâu khôn lường của mầu nhiệm Ba Ngôi, thuật ngữ này cũng đề cập đến 'tính thường nhật' trong các mối quan hệ của chúng ta: trong những cử chỉ đơn giản nhất mà qua đó chúng ta mở lòng ra cho nhau, hơi thở của Chúa Thánh Thần thực sự thổi nơi đây. Đó là lý do tại sao sự hiệp thông, xuất phát từ Bí tích Thánh Thể và được cử hành trong đó, định hình và hướng dẫn con đường hiệp hành.
f) Từ Thánh Thể, chúng ta học cách nói rõ sự hiệp nhất và đa dạng: sự hiệp nhất của Giáo Hội và sự đa dạng của các cộng đồng Kitô hữu; sự hiệp nhất của mầu nhiệm bí tích và sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ; sự hiệp nhất của việc cử hành và đa dạng các ơn gọi, đặc sủng và các thừa tác vụ. Không có gì cho thấy rõ hơn Thánh Thể rằng sự hài hòa được tạo ra bởi Chúa Thánh Thần không phải là sự đồng nhất và mọi hồng ân của Giáo Hội đều nhằm mục đích xây dựng chung.
Các vấn đề cần xem xét
g) Bí tích Rửa tội không thể được hiểu một cách riêng lẻ hoặc bên ngoài logic của việc khai tâm Kitô giáo, cũng không thể được hiểu theo cách cá nhân chủ nghĩa. Do đó, chúng ta cần khám phá thêm về sự đóng góp mà một quan điểm thống nhất hơn về việc khai tâm Kitô giáo có thể mang lại cho sự hiểu biết về tính hiệp hành.
h) Việc thực hành một cách chín chắn cảm thức đức tin (sennsus fidei) không chỉ đòi hỏi việc lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà còn là một đời sống trong vai trò môn đệ chân chính để phát triển ân sủng của Bí tích Rửa tội. Điều này cho phép chúng ta phân biệt hành động của Chúa Thánh Thần với các hình thức tư duy hoặc điều kiện văn hóa thịnh hành, hoặc với những vấn đề không phù hợp với Tin Mừng. Hiểu được việc thực hành cảm thức đức tin phải được đào sâu với suy tư thần học phù hợp.
i) Suy tư về tính hiệp hành có thể mang lại cái nhìn mới mẻ về Bí tích Thêm sức, qua đó ân sủng của Chúa Thánh Thần thể hiện sự đa dạng của các ơn huệ và đặc sủng trong sự hài hòa của Lễ Hiện Xuống. Dựa trên các kinh nghiệm khác nhau của Giáo Hội, cần phải cân nhắc những cách thức để làm cho việc chuẩn bị và cử hành Bí Tích này trở nên hiệu quả hơn, để đánh thức nơi tất cả các tín hữu lời mời gọi xây dựng cộng đoàn, sứ mạng truyền giáo trên thế giới và làm chứng cho đức tin.
j) Về mặt thần học mục vụ, điều quan trọng là phải tiếp tục nghiên cứu xem làm thế nào con đường dự tòng có thể truyền cảm hứng cho các con đường mục vụ khác, chẳng hạn như việc chuẩn bị hôn nhân, hoặc đồng hành trong việc lựa chọn các cam kết nghề nghiệp và xã hội, hoặc đào tạo cho chức thánh, trong đó toàn thể cộng đoàn Giáo Hội cần tham gia.
Các đề xuất
k) Nếu Thánh Thể định hình tính hiệp hành, thì bước đầu tiên chúng ta nên thực hiện là cử hành Thánh Lễ theo cách xứng đáng với ân sủng, với một ý nghĩa đích thực về tình bằng hữu trong Đức Kitô. Phụng vụ được cử hành với tính xác thực là trường học đầu tiên và cơ bản của vai trò người môn đệ. Vẻ đẹp và sự đơn giản của nó nên huấn luyện chúng ta trước bất kỳ chương trình đào tạo chính thức nào khác.
l) Bước thứ hai đề cập đến nhu cầu rộng rãi được báo cáo là cần làm cho ngôn ngữ phụng vụ dễ tiếp cận hơn với các tín hữu và thể hiện sâu sắc hơn trong sự đa dạng văn hóa. Mà không đặt câu hỏi về sự liên tục với truyền thống và nhu cầu đào tạo phụng vụ tốt hơn, cần có suy tư sâu sắc hơn. Các Hội đồng Giám mục nên được ủy thác trách nhiệm rộng rãi hơn trong vấn đề này, theo Motu Proprio Magnum principium.
m) Bước thứ ba bao gồm cam kết mục vụ nhằm mở rộng việc cầu nguyện cộng đoàn vượt ra ngoài việc cử hành Thánh lễ. Các hình thức cầu nguyện phụng vụ thay thế, cũng như các thực hành lòng đạo đức bình dân, trong đó phản ánh sự khác biệt của các nền văn hóa địa phương, là những yếu tố có tầm quan trọng lớn trong việc thúc đẩy sự tham gia của tất cả các tín hữu. Chúng giới thiệu các tín hữu với mầu nhiệm Kitô giáo và đưa những người ít quen thuộc với Giáo Hội đến gần hơn với cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong số các hình thức đạo đức bình dân, lòng sùng kính Đức Mẹ nổi bật vì khả năng nuôi dưỡng và bồi đắp đức tin của nhiều người.
4. Người nghèo, những chủ thể trong hành trình của Giáo Hội
Đúc kết các ý kiến
a) Người nghèo mong đợi từ Hội Thánh tình yêu thương. Yêu thương đồng nghĩa với tôn trọng, chấp nhận và ghi nhận vai trò của họ trong lòng Giáo Hội. Nếu thiếu vắng yêu thương, mọi việc hỗ trợ thực phẩm, tiền bạc hoặc các dịch vụ xã hội tuy là quan trọng nhưng chưa đủ, cần phải xem xét đến phẩm giá con người và đối xử tôn trọng họ. Mỗi người cần được trao quyền để tự quyết định phương thức phát triển của riêng mình hơn là trở thành đối tượng của hoạt động từ thiện của người khác. Được công nhận và tôn trọng là những cách mạnh mẽ giúp họ có thể thực hiện điều này.
b) Sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo được ngầm hiểu trong đức tin Kitô giáo là: Chúa Giêsu, một người nghèo và khiêm nhường, kết bạn với những người nghèo khó, ngồi chung bàn với họ và lên án những nguyên nhân của nghèo đói. Đối với Giáo Hội, lựa chọn ưu tiên cho người nghèo và những người bị gạt ra bên lề là một phạm trù thần học trước khi trở thành một phạm trù văn hóa, xã hội, chính trị hoặc triết học. Đối với Thánh Gioan Phaolô II, Thiên Chúa ban lòng thương xót của Ngài trước nhất cho người nghèo. Sự ưu tiên này có hệ quả đối với đời sống của tất cả các Kitô hữu, những người được kêu gọi nuôi dưỡng "cùng một tâm trí ... như Chúa Giêsu Kitô" (Pl 2,5).
c) Cái nghèo không chỉ có một dạng duy nhất. Trong số nhiều khuôn mặt của những người nghèo, có những người thiếu những thứ họ cần để sống một cuộc sống có phẩm giá. Ngoài ra còn có di dân và người tị nạn; người bản địa, các dân tộc gốc và hậu duệ gốc châu Phi; những người bị bạo lực và lạm dụng, đặc biệt là phụ nữ; những người nghiện ngập; các nhóm thiểu số bị từ chối quyền lên tiếng một cách có hệ thống; người già bị bỏ rơi; nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, bóc lột và buôn người, đặc biệt là trẻ vị thành niên; lao động bị bóc lột; những người bị loại trừ về kinh tế, và những người sống ở ngoài lề xã hội. Những người yếu thế nhất trong số những người yếu thế, mà thay mặt họ cần có sự ủng hộ không ngừng, bao gồm thai nhi và mẹ của chúng. Hội nghị lắng nghe tiếng kêu của "người nghèo mới", gây nên bởi các cuộc chiến tranh và khủng bố gieo rắc tai họa cho nhiều quốc gia trên nhiều châu lục, và chúng tôi lên án các hệ thống chính trị và kinh tế tham nhũng gây ra xung đột như vậy.
d) Bên cạnh các hình thức nghèo đói vật chất, nhiều người cũng trải qua sự nghèo đói về tinh thần, được hiểu là thiếu ý nghĩa của cuộc sống. Sự lo lắng quá mức về bản thân có thể dẫn đến việc coi người khác là mối đe dọa, từ đó khiến chúng ta lại càng quay vào bản thân mình, biểu hiện một loại chủ nghĩa cá nhân. Khi người nghèo về tinh thần và vật chất gặp gỡ nhau, họ bắt đầu một cuộc hành trình hướng tới việc tìm kiếm câu trả lời cho nhu cầu của nhau. Đây là một cách đồng hành cùng nhau làm cho viễn cảnh của Giáo Hội hiệp hành trở nên cụ thể, sẽ cho chúng ta thấy đầy đủ ý nghĩa trọn vẹn nhất của mối phúc Tin Mừng, "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó" (Mt 5,3).
e) Đứng cùng những người nghèo đòi hỏi chúng ta phải tham gia với họ trong việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta: tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của những người sống trong cảnh nghèo đói là cùng một tiếng kêu. Sự thiếu hồi đáp cho tiếng kêu này làm cho cuộc khủng hoảng sinh thái, và đặc biệt là biến đổi khí hậu, trở thành mối đe dọa đối với sự tồn vong của nhân loại. Tông huấn Laudate Deum, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô công bố vào đúng thời điểm khai mạc công việc của Thượng Hội đồng, đã nhấn mạnh điều này. Giáo Hội ở các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ hậu quả của biến đổi khí hậu hiểu rõ nhu cầu cấp bách phải thay đổi hướng đi, và đây là đóng góp của họ cho hành trình của các Giáo Hội địa phương khác ở nhiều nơi trên thế giới.
f) Cam kết của Giáo Hội phải nhắm vào nguyên nhân của nghèo đói và loại trừ. Điều này bao gồm các hành động để bảo vệ quyền của những người bị loại trừ, và có thể đòi hỏi sự lên án công khai những bất công, cho dù gây ra bởi các cấu trúc xã hội hay bởi các cá nhân, tập đoàn hoặc chính phủ. Điều cần thiết để lắng nghe tiếng nói của người nghèo là lắng nghe đòi hỏi và quan điểm của họ, và sử dụng ngôn ngữ của chính họ.
g) Các Kitô hữu có bổn phận cam kết tham gia tích cực vào việc xây dựng thiện ích chung và bảo vệ phẩm giá sự sống, lấy cảm hứng từ học thuyết xã hội của Giáo Hội và hợp tác theo nhiều cách thức khác nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự, công đoàn, các phong trào bình dân, các hiệp hội cơ sở, trong lĩnh vực chính trị, v.v. Giáo Hội vô cùng biết ơn họ. Cộng đồng có bổn phận hỗ trợ những người làm việc trong các lĩnh vực này trong tinh thần bác ái và phục vụ chân thành. Hành động của họ là một phần trong sứ mạng của Giáo Hội để loan báo Tin Mừng và để Nước Trời mau trị đến.
h) Cộng đồng Kitô hữu gặp gỡ dung mạo và thân xác của Đức Kitô, Đấng, mặc dù giàu có, nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người (x. 2Cr 8,9). Hội Thánh được kêu gọi không chỉ gần gũi với người nghèo, mà còn học hỏi từ họ. Nếu hiệp hành có nghĩa là đồng hành cùng với Đấng là Đường, thì một Giáo Hội hiệp hành cần đặt những người đang trải qua nghèo đói vào trung tâm của mọi khía cạnh của đời sống: qua những đau khổ của họ, họ có sự kinh nghiệm trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (x. Evangelii gaudium, số 198). Sự giống nhau của cuộc sống của họ với cuộc sống của Chúa làm cho những người nghèo là những sứ giả của ơn cứu độ được đón nhận như một ơn huệ và làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng.
Các vấn đề cần xem xét
i) Ở một số nơi trên thế giới, Giáo Hội nghèo khó, sống cùng với những người nghèo khó, và vì những người nghèo khó. Có một nguy cơ thường trực, một nguy cơ cần hết sức tránh, khi nhìn nhận những người sống trong nghèo đói theo cách phân biệt "họ" và "chúng ta", như những "đối tượng" của đức ái của Giáo Hội. Đặt những người đang trải qua nghèo đói vào trung tâm và học hỏi từ họ là điều mà Giáo Hội phải làm ngày càng nhiều hơn.
j) Một mặt, việc lên tiếng mang tính ngôn sứ về các tình huống bất công, và những nỗ lực thuyết phục các nhà hoạch định chính sách hành động vì lợi ích chung, cần phải sử dụng ngoại giao, mặt khác, phải được duy trì trong một sự căng thẳng năng động để không đánh mất đi sự tập trung rõ ràng hoặc hiệu quả. Cụ thể, phải cẩn trọng để đảm bảo rằng việc sử dụng các quỹ công hoặc tư nhân của các tổ chức của Giáo Hội không hạn chế quyền tự do lên tiếng vì những đòi hỏi của Tin Mừng.
k) Việc cung cấp các dịch vụ trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội, mà không phân biệt đối xử hay loại trừ bất cứ ai, là một dấu chỉ rõ ràng của một Giáo Hội thúc đẩy sự hội nhập và tham gia của những người yếu thế nhất trong Giáo Hội và xã hội. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này được khuyến khích xem mình là biểu hiện của cộng đồng Kitô hữu và tránh việc bác ái trở nên vô hồn. Họ cũng được khuyến khích liên kết và phối hợp với những người khác.
l) Giáo Hội phải trung thực trong việc xem xét cách thức đáp ứng những yêu cầu của công bằng đối với những người làm việc trong các cơ sở liên kết của mình để đảm bảo nó hành động với sự nhất quán và chính trực.
m) Trong một Giáo Hội hiệp hành, tình liên đới cũng thể hiện dưới hình thức trao đổi ơn huệ và chia sẻ tài nguyên giữa các Giáo Hội địa phương từ các khu vực khác nhau. Những mối quan hệ này thúc đẩy sự hiệp nhất của Giáo Hội bằng cách tạo ra các mối liên kết giữa các cộng đồng Kitô hữu liên quan. Cần phải tập trung vào các điều kiện cần thiết để đảm bảo rằng các linh mục đến trợ giúp các Giáo Hội cần giáo sĩ không chỉ cung cấp một giải pháp chức năng mà còn đại diện cho một nguồn lực cho sự phát triển của cả Giáo Hội sai đi và Giáo Hội tiếp nhận họ. Tương tự như vậy, cần phải đảm bảo rằng viện trợ kinh tế không thoái hóa thành việc cung cấp phúc lợi đơn thuần, nhưng cũng thúc đẩy tình liên đới Tin Mừng đích thực và được quản lý một cách minh bạch và đáng tin cậy.
Đề nghị
n) Học thuyết xã hội của Giáo Hội là một nguồn tài nguyên ít được biết đến. Điều này cần được giải quyết. Các Giáo Hội địa phương được mời gọi không chỉ để làm cho nội dung của nó được biết đến rộng rãi hơn mà còn thúc đẩy việc tiếp nhận của nó thông qua các thực hành đưa lý thuyết vào hành động.
o) Kinh nghiệm gặp gỡ, chia sẻ đời sống chung và phục vụ những người sống trong nghèo đói và bên lề xã hội phải là một phần không thể thiếu trong tất cả các lộ trình đào tạo được các cộng đồng Kitô hữu cung cấp: đó là một yêu cầu của đức tin, không phải là một phần tự chọn. Điều này đặc biệt đúng đối với các ứng viên cho thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến.
p) Như một phần của việc suy nghĩ lại thừa tác vụ phó tế, Giáo Hội nên thúc đẩy một định hướng mạnh mẽ hơn đối với việc phục vụ những người nghèo.
q) Giáo huấn, phụng vụ và thực hành của Giáo Hội phải tích hợp một cách rõ ràng và cẩn thận hơn các nền tảng Kinh Thánh và thần học của hệ sinh thái toàn diện.
5. Một Giáo Hội "từ mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia"
Đúc kết ý kiến
a) Các tín hữu sống trong các nền văn hóa cụ thể, mang Chúa Kitô đến với các nền văn hóa ấy trong Lời Chúa và các Bí tích, tham gia phục vụ bác ái với lòng khiêm nhường và niềm vui, đón nhận mầu nhiệm Chúa Kitô vốn đã chờ đợi chúng ta ở mọi nơi và mọi lúc. Bằng cách này, chúng ta trở thành một Giáo Hội chào đón mọi người từ "mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia" (Kh 5,9).
b) Các bối cảnh văn hóa, lịch sử và lục địa nơi Giáo Hội hiện diện tiết lộ những nhu cầu tinh thần và vật chất khác nhau. Điều này định hình văn hóa của các Giáo Hội địa phương, các ưu tiên truyền giáo của họ, các mối quan tâm và ân sủng mà mỗi Giáo Hội mang đến cho cuộc đối thoại hiệp hành, và các ngôn ngữ mà họ sử dụng để biểu đạt bản thân. Trong những ngày của Hội nghị, chúng tôi đã có thể trải nghiệm trực tiếp, và hầu hết là vui mừng, những biểu hiện đa dạng của Giáo Hội.
c) Các Giáo Hội sống trong bối cảnh ngày càng đa văn hóa và đa tôn giáo. Điều này đòi hỏi phải tìm cách thức tạo ra cuộc đối thoại giữa các tôn giáo và văn hóa,nơi mà các Kitô hữu cần tham gia cùng với nhiều nhóm khác tạo nên xã hội. Sống sứ mạng của Giáo Hội trong những bối cảnh này đòi hỏi một phong cách hiện diện, phục vụ và rao giảng nhằm tìm cách xây dựng những nhịp cầu, vun trồng sự hiểu biết lẫn nhau và tham gia vào việc rao giảng Tin Mừng đồng hành, lắng nghe và học hỏi. Trong Hội nghị, hình ảnh "cởi bỏ giày dép" để bước qua ngưỡng gặp gỡ người khác vang lên như một dấu chỉ của sự khiêm nhường và tôn trọng đối với một không gian thánh thiêng, trên một cơ sở bình đẳng.
d) Di cư làm thay đổi các Giáo Hội địa phương thành các cộng đồng đa văn hóa. Những người di cư và tị nạn, nhiều người trong số họ mang những vết thương của việc phải ly hương, chiến tranh và bạo lực, thường trở thành một nguồn canh tân và làm phong phú cho các cộng đồng đón nhận họ và là cơ hội để thiết lập các liên kết trực tiếp với các Giáo Hội xa xôi về mặt địa lý. Trước thái độ ngày càng thù địch đối với những người di cư, chúng ta được mời gọi thực hành một sự đón tiếp cởi mở, đồng hành với họ trong việc xây dựng một cuộc sống mới và xây dựng sự hiệp thông giao thoa văn hóa thực sự giữa các dân tộc. Tôn trọng các truyền thống phụng vụ và thực hành tôn giáo của người di cư là một phần không thể thiếu của sự đón tiếp chân thành.
e) Các nhà truyền giáo đã hi sinh mạng sống của mình để mang Tin Mừng đến cho toàn thế giới. Sự dấn thân của họ là một bằng chứng tuyệt vời cho sức mạnh của Tin Mừng. Tuy nhiên, cần có sự chú ý và nhạy cảm đặc biệt trong bối cảnh mà "truyền giáo" là một từ chứa đầy những ký ức lịch sử đau đớn gây cản trở sự hiệp thông ngày nay. Ở một số nơi, việc loan báo Tin Mừng gắn liền với thực thuộc địa hóa, thậm chí là diệt chủng. Truyền giáo trong những bối cảnh này đòi hỏi phải thừa nhận những sai lầm đã mắc phải, học hỏi sự nhạy cảm mới mẻ đối với các vấn đề này, và đồng hành với thế hệ đang tìm cách xây dựng bản sắc Kitô giáo vượt ra khỏi chủ nghĩa thực dân. Thái độ tôn trọng và khiêm nhường là những điều cần thiết để nhận ra rằng chúng ta bổ túc cho nhau và những cuộc gặp gỡ với các nền văn hóa khác nhau có thể làm phong phú thêm cuộc sống và suy nghĩ về đức tin của các cộng đồng Kitô hữu.
f) Giáo Hội dạy về nhu cầu và khuyến khích việc thực hành đối thoại liên tôn như một phần của việc xây dựng sự hiệp thông giữa tất cả các dân tộc. Trong một thế giới bạo lực và chia rẽ, chứng tá về sự hiệp nhất của nhân loại, với nguồn gốc và vận mệnh chung của nó, trong một tình liên đới phối hợp và hỗ tương hướng tới công bằng xã hội, hòa bình, hòa giải và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Giáo Hội ý thức rằng Chúa Thánh Thần có thể nói qua những con người thuộc mọi tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa.
Các vấn đề cần xem xét
g) Chúng ta cần nuôi dưỡng sự nhạy cảm lớn hơn đối với giá trị phong phú trong các biểu hiện đa dạng của chúng ta về việc thế nào là Giáo Hội. Điều này đòi hỏi phải tìm kiếm một sự cân bằng năng động giữa chiều kích của Hội Thánh như một tổng thể và bản sắc cội nguồn địa phương của nó, giữa việc tôn trọng mối dây hiệp nhất của Giáo Hội và nguy cơ đồng nhất bóp nghẹt sự đa dạng. Ý nghĩa và ưu tiên thay đổi giữa các bối cảnh khác nhau, và điều này đòi hỏi phải xác định và thúc đẩy các hình thức phân quyền.
h) Giáo Hội cũng bị ảnh hưởng bởi sự phân cực và mất lòng tin trong các vấn đề quan trọng như đời sống phụng vụ và suy tư luân lý, xã hội và thần học. Chúng ta cần nhận ra nguyên nhân của từng vấn đề thông qua đối thoại và thực hiện các tiến trình can đảm để làm tái sinh sự hiệp thông và các tiến trình hòa giải để khắc phục chúng.
i) Trong các Giáo Hội địa phương của chúng ta, đôi khi chúng ta gặp phải những căng thẳng giữa các cách hiểu khác nhau về truyền giáo: nhấn mạnh vào chứng tá sự sống, cam kết thăng tiến con người, đối thoại với các tôn giáo và nền văn hóa, và công bố Tin Mừng một cách rõ ràng. Tương tự, một sự căng thẳng nảy sinh giữa việc công bố rõ ràng về Chúa Giêsu Kitô và việc đánh giá cao các đặc điểm của mỗi nền văn hóa để tìm kiếm những nét Tin Mừng (semina Verbi) mà nó đã chứa đựng.
j) Sự nhầm lẫn có thể xảy ra giữa sứ điệp Tin Mừng và văn hóa của những người tham gia truyền giáo đã được đề cập như là một trong những vấn đề cần được khám phá.
k) Xung đột gia tăng, với việc buôn bán và sử dụng vũ khí ngày càng mạnh mẽ, đặt ra câu hỏi, được nêu ra trong nhiều nhóm, về sự suy tư và đào tạo nhiều hơn để chúng ta có thể quản lý các cuộc xung đột một cách bất bạo động. Đây là một đóng góp quý giá mà các Kitô hữu có thể cống hiến cho thế giới ngày nay trong cuộc đối thoại và cộng tác với các tôn giáo khác.
Các đề xuất
l) Cần chú ý trở lại câu hỏi về ngôn ngữ chúng ta sử dụng để nói với tâm trí và trái tim của mọi người trong nhiều bối cảnh khác nhau theo cách vừa đẹp đẽ vừa dễ tiếp cận.
m) Chúng ta cần một khuôn khổ chung để quản lý và đánh giá các thử nghiệm với các hình thức phân quyền, xác định tất cả các tác nhân liên quan và vai trò của họ. Vì lợi ích của sự gắn kết, các tiến trình biện phân liên quan đến phân quyền phải diễn ra theo phong cách hiệp hành, cân nhắc đến sự đồng thuận và đóng góp của tất cả các chủ thể liên quan ở các cấp độ khác nhau.
n) Cần có các mô hình mới cho việc tham gia mục vụ với các dân tộc bản địa, dưới hình thức của một hành trình chung chứ không phải là một hành động được thực hiện cho họ hoặc vì họ. Sự tham gia của họ vào các tiến trình ra quyết định ở mọi cấp độ có thể góp phần vào một Giáo Hội sống động và truyền giáo hơn.
o) Từ công việc của Hội nghị, có lời kêu gọi hiểu biết rõ hơn về các giáo huấn của Công đồng Vatican II, giáo huấn hậu Công đồng và học thuyết xã hội của Giáo Hội. Chúng ta cần biết rõ hơn các truyền thống khác nhau của mình để trở thành một Giáo Hội của các Giáo Hội trong sự hiệp thông, hiệu quả hơn trong việc phục vụ và đối thoại.
p) Trong một thế giới nơi mà con số người di cư và tị nạn đang gia tăng trong khi sự sẵn sàng chào đón họ đang giảm dần và nơi người ngoại quốc bị nhìn với sự nghi ngờ ngày càng tăng, thật thích hợp cho Giáo Hội để dấn thân một cách dứt khoát vào giáo dục, vào văn hóa đối thoại và gặp gỡ, chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại, đặc biệt là thông qua việc đào tạo mục vụ. Tương tự, cần phải tham gia vào các dự án cụ thể để hội nhập người di cư.
q) Chúng tôi khuyến nghị tiếp tục tham gia đối thoại và phân định về công bằng chủng tộc. Các hệ thống trong Giáo Hội tạo ra hoặc duy trì sự bất công chủng tộc cần phải được xác định và giải quyết. Các tiến trình chữa lành và hòa giải nên được tạo ra, với sự giúp đỡ của những người bị tổn hại, để xóa bỏ tội phân biệt chủng tộc.
6. Các Giáo Hội Đông phương và truyền thống Giáo Hội Latinh
Đúc kết ý kiến
a) Trong số các Giáo Hội Đông Phương, có những Giáo Hội hiệp thông trọn vẹn với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô được hưởng một sự khác biệt về phụng vụ, thần học, Giáo Hội học và giáo luật làm phong phú thêm toàn thể Giáo Hội. Cụ thể, kinh nghiệm của họ về sự hiệp nhất trong sự đa dạng có thể mang lại đóng góp có giá trị cho sự hiểu biết và thực hành tính hiệp hành.
b) Xuyên suốt lịch sử, mức độ tự trị được trao cho các Giáo Hội này đã trải qua những giai đoạn khác nhau. Một số phong tục và thủ tục hiện được coi là lỗi thời, chẳng hạn như việc Latinh hóa. Trong những thập niên gần đây, con đường nhận ra tính đặc thù, sự khác biệt và quyền tự trị của các Giáo Hội này đã phát triển đáng kể.
c) Sự di cư đáng kể của các tín hữu Công giáo theo nghi lễ Đông phương vào các lãnh thổ đa số theo Công giáo Latinh đặt ra những câu hỏi mục vụ quan trọng. Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục hoặc gia tăng, có thể có nhiều thành viên của các Giáo Hội Công giáo Đông phương trong cộng đồng hải ngoại hơn là trong các lãnh thổ chính thức. Vì nhiều lý do, việc thiết lập hàng giáo phẩm Đông phương tại các quốc gia nhập cư là không đủ để giải quyết vấn đề, nhưng cần có sự tham gia các Giáo Hội theo nghi lễ Latinh địa phương, nhân danh tính hiệp hành, để giúp các tín hữu Đông phương di cư bảo tồn căn tính của họ và nuôi dưỡng di sản đặc thù của họ, mà không trải qua các quá trình đồng hóa.
Các vấn đề cần xem xét
d) Chúng tôi đề nghị nghiên cứu thêm về sự đóng góp mà kinh nghiệm của các Giáo Hội Công giáo Đông phương có thể mang lại cho sự hiểu biết và thực hành tính hiệp hành.
e) Vẫn còn một số khó khăn liên quan đến vai trò của Đức Giáo Hoàng trong việc chấp thuận các giám mục được bầu bởi Thượng Hội đồng các Giáo Hội sui iuris cho lãnh thổ của họ và việc bổ nhiệm các giám mục bên ngoài lãnh thổ giáo luật. Yêu cầu mở rộng thẩm quyền của các Thượng phụ bên ngoài lãnh thổ Thượng phụ cũng là một vấn đề cần phân định và đối thoại với Tòa Thánh.
f) Ở những khu vực có sự hiện diện của các tín hữu thuộc các Giáo Hội Công giáo khác nhau, chúng ta cần tìm ra các mô hình diễn tả rõ ràng các hình thức hiệp nhất hiệu quả trong sự đa dạng.
g) Chúng ta cần suy tư về sự đóng góp mà các Giáo Hội Công giáo Đông phương có thể mang lại cho sự hiệp nhất Kitô giáo và vai trò của họ trong các cuộc đối thoại liên tôn và liên văn hóa.
Các đề xuất
h) Trước hết, đề nghị thành lập một Hội đồng thường trực gồm các Thượng phụ và Tổng Giám mục của các Giáo Hội Công giáo Đông phương cho Đức Thánh Cha.
i) Một số người yêu cầu triệu tập một Thượng Hội đồng đặc biệt dành riêng cho các Giáo Hội Công giáo Đông phương, căn tính và sứ mạng của họ, cũng như giải quyết các thách thức mục vụ và giáo luật trong bối cảnh chiến tranh và di cư ồ ạt.
j) Chúng ta cần thành lập một ủy ban hỗn hợp gồm các nhà thần học, sử học và giáo luật Đông phương và Latinh để giải quyết các vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm và xây dựng các đề xuất chỉ ra hướng đi phía trước.
k) Cần phải có sự đại diện đầy đủ của các thành viên của các Giáo Hội Công giáo Đông phương trong các cơ quan của Giáo triều Rôma để làm phong phú toàn thể Giáo Hội bằng quan điểm của họ, giúp giải quyết các vấn đề khi chúng phát sinh và tạo điều kiện cho sự tham gia đối thoại ở các cấp độ khác nhau.
l) Để thúc đẩy các hình thức tiếp nhận tôn trọng di sản của các tín hữu của các Giáo Hội Đông phương, chúng ta cần tăng cường mối liên hệ giữa các giáo sĩ Đông phương ở nước ngoài và các giáo sĩ Latinh để đào sâu sự hiểu biết lẫn nhau và công nhận các Truyền thống tương ứng.

7. Trên con đường hướng tới sự hiệp nhất Kitô giáo
Đúc kết ý kiến
a) Kỳ họp này của Thượng Hội đồng khai mạc bằng một cử chỉ đại kết sâu sắc. Đêm canh thức cầu nguyện "Cùng nhau" đã chứng kiến sự hiện diện của nhiều nhà lãnh đạo khác và đại diện của các cộng đoàn Kitô giáo khác nhau bên cạnh Đức Thánh Cha Phanxicô, một dấu chỉ rõ ràng và đáng tin cậy về ý chí cùng nhau bước đi trong tinh thần hiệp nhất đức tin và trao đổi ân sủng. Sự kiện hết sức quan trọng này cũng cho phép chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trong một kairos – thời khắc – đại kết và tái khẳng định rằngnhững gì liên kết chúng ta thì lớn hơn những gì chia rẽ chúng ta. Vì chúng ta có cùng "một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa và Cha của tất cả mọi người, Đấng trên hết tất cả, giữa tất cả và trong tất cả" (Ep 4,5-6).
b) Bí tích Rửa tội, vốn là gốc rễ của nguyên tắc hiệp hành, cũng cấu thành nền tảng của đại kết. Thông qua đó, tất cả các Kitô hữu tham dự vào cảm thức đức tin (sensus fidei) và vì lý do này, họ nên được lắng nghe cẩn thận, bất kể truyền thống của họ, như Thượng Hội đồng đã làm trong tiến trình phân định của mình. Không thể có tính hiệp hành nếu nếu thiếu chiều kích đại kết.
c) Đại kết trước hết và trên hết là một vấn đề đổi mới tâm linh vốn đòi hỏi các tiến trình sám hối và chữa lành ký ức. Hội nghị đã xúc động khi nghe lời chứng của các Kitô hữu thuộc các truyền thống Giáo Hội khác nhau, những người chia sẻ tình bạn, lời cầu nguyện và trên hết là cam kết phục vụ những người nghèo khó. Sự cống hiến cho những người bé mọn nhất trong số này gắn kết và giúp chúng ta tập trung vào những gì đã hiệp nhất tất cả các tín hữu trong Đức Kitô. Do đó, điều quan trọng là đại kết phải được thực hành trước hết trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc đối thoại thần học và thể chế, việc kiên nhẫn dệt nên sự hiểu biết lẫn nhau tiếp tục trong một bầu không khí ngày càng tin tưởng và cởi mở.
d) Ở không ít khu vực trên thế giới có một "phong trào đại kết bằng máu", bắt nguồn từ các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác nhau, những người hiến mạng sống mình vì đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Lời chứng về sự tử đạo của họ hùng hồn hơn bất kỳ lời nói nào. Sự hiệp nhất đến từ Thánh Giá của Chúa.
e) Sự hợp tác giữa tất cả các Kitô hữu là rất quan trọng trong việc đối phó với các thách đố mục vụ của thời đại ngày nay. Trong các xã hội tục hóa, điều này cho phép tiếng nói của Tin Mừng có sức mạnh lớn hơn. Trong bối cảnh nghèo đói, nó thúc đẩy mọi người hợp lực phục vụ công lý, hòa bình và phẩm giá của những người bé mọn nhất. Trong mọi trường hợp, nó là nguồn lực chữa lành nền văn hóa hận thù, chia rẽ và chiến tranh khiến các nhóm, dân tộc và quốc gia đối đầu với nhau.
f) Hôn nhân giữa các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội hoặc cộng đồng Giáo Hội khác nhau (hôn nhân liên Giáo Hội) có thể tạo thành những thực tại trong đó sự khôn ngoan của sự hiệp thông có thể chín muồi, và có thể loan báo Tin Mừng cho nhau.
Các vấn đề cần xem xét
g) Hội nghị của chúng tôi có thể cảm nhận được những cách thức khác nhau mà các truyền thống Kitô giáo hiểu về cấu trúc hiệp hành của Giáo Hội. Trong các Giáo Hội Chính thống, tính hiệp hành được hiểu theo nghĩa chặt chẽ như là một biểu hiện của việc thực thi quyền bính tập thể của các giám mục (Thánh Công đồng). Nói chung, nó đề cập đến sự tham gia tích cực của tất cả các tín hữu vào đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Cũng có một số đề cập đến các thực hành trong các cộng đồng Giáo Hội khác, làm phong phú thêm các cuộc tranh luận của chúng tôi. Tất cả điều này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
h) Một chủ đề khác cần được khám phá liên quan đến mối liên hệ giữa tính hiệp hành và quyền tối thượng ở các cấp độ khác nhau (địa phương, khu vực, toàn cầu) trong sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Chúng ta cần đọc lại lịch sử để vượt qua những khuôn mẫu và định kiến. Các cuộc đối thoại đại kết đang diễn ra đã cung cấp một sự hiểu biết tốt hơn, dưới ánh sáng của các thực hành của thiên niên kỷ thứ nhất, về thực tế rằng tính hiệp hành và quyền tốii thượng là những thực tại liên quan, bổ sung và không thể tách rời nhau. Việc làm sáng tỏ điểm nhạy cảm này có những hệ quả đối với cách hiểu thừa tác vụ Phêrô trong việc phục vụ sự hiệp nhất, theo những gì Thánh Gioan Phaolô II mong muốn trong thông điệp Ut unum sint.
i) Chúng ta cần xem xét vấn đề Thánh Thể (Communicatio in sacris) từ các góc độ thần học, giáo luật và mục vụ dưới ánh sáng của mối liên hệ giữa bí tích và hiệp thông Giáo Hội. Vấn đề này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các cặp vợ chồng liên Giáo Hội. Nó làm tăng nhu cầu suy tư rộng hơn về các cuộc hôn nhân giữa các Giáo Hội.
j) Việc suy tư cũng được kêu gọi về hiện tượng các cộng đoàn "phi giáo phái" và các phong trào "phục hưng" lấy cảm hứng từ Kitô giáo, cũng được tham gia với số lượng lớn bởi các tín hữu ban đầu là Công giáo.
Các đề xuất
k) Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm Công đồng Nicaea (325), nơi biểu tượng đức tin hiệp nhất tất cả các Kitô hữu đã được xây dựng. Việc kỷ niệm chung về sự kiện này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách thức các vấn đề gây tranh cãi trong quá khứ đã được thảo luận và giải quyết cùng nhau trong Công đồng.
 l) Cũng trong năm đó, 2025, theo sự an bài của Thiên Chúa, ngày lễ Phục sinh sẽ trùng nhau đối với tất cả các Giáo Hội và cộng đồng Kitô hữu. Hội nghị bày tỏ một mong muốn mãnh liệt đến một ngày chung cho lễ Phục sinh để chúng ta có thể cử hành sự Phục sinh của Chúa, sự sống và ơn cứu độ của chúng ta, trong cùng một ngày.
m) Cũng có mong muốn tiếp tục mời gọi các Kitô hữu của các Giáo Hội khác và các truyền thống Giáo Hội khác vào các tiến trình hiệp hành ở tất cả các cấp và mời thêm các phái đoàn huynh đệ tham dự phiên họp tiếp theo của Hội nghị vào năm 2024.
n) Một đề nghị đã được đưa ra bởi một số người để triệu tập một Thượng Hội đồng đại kết về sứ mạng chung trong thế giới đương đại.
 o) Cũng có đề nghị rằng chúng ta có thể soạn thảo một danh sách các chứng tá tử đạo mang tính đại kết.





 
PHẦN II:
TẤT CẢ LÀ MÔN ĐỆ, TẤT CẢ LÀ NHÀ TRUYỀN GIÁO

8. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo
Đúc kết ý kiến
a) Thay vì nói rằng Giáo Hội có một sứ mạng, chúng ta khẳng định rằng bản chất Giáo Hội 'là' truyền giáo. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21): Giáo Hội lãnh nhận sứ mạng của mình từ Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đi. Được nâng đỡ và hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, Giáo Hội loan báo và làm chứng cho Tin Mừng đối với những ai chưa biết hoặc chưa đón nhận Tin Mừng. Giáo Hội thực hiện điều này với sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Giêsu. Bằng cách này, Giáo Hội cộng tác vào sự ngự đến của triều đại Nước Thiên Chúa, nơi mà Giáo Hội là hạt giống (x. LG, số 5).
b) Các bí tích khai tâm Kitô giáo trao cho tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu trách nhiệm đối với sứ mạng của Giáo Hội. Các anh chị em giáo dân, những người sống đời sống thánh hiến, và các thừa tác viên có chức thánh đều có phẩm giá bình đẳng với nhau. Họ đã lãnh nhận các đặc sủng và ơn gọi khác nhau và thực hiện các vai trò và chức năng khác nhau, nhưng tất cả đều được Chúa Thánh Thần kêu gọi và nuôi dưỡng để tạo nên một thân thể trong Đức Kitô (1 Cor. 4-31). Tất cả mọi người đều là môn đệ, tất cả đều là những nhà truyền giáo, trong sự sống động tương hỗ của các cộng đoàn địa phương, là những cộng đoàn cảm nghiệm niềm vui và sự an ủi khi rao giảng Tin Mừng. Việc thực thi đồng trách nhiệm là điều cần thiết cho tính hiệp hành và cần thiết ở mọi cấp độ của Giáo Hội. Mỗi Kitô hữu có một sứ mạng trên trái đất này.
c) Gia đình là trụ cột của mọi cộng đoàn Kitô hữu. Cha mẹ, ông bà và tất cả những người sống và chia sẻ đức tin trong gia đình là những nhà truyền giáo đầu tiên. Gia đình, với tư cách là một cộng đoàn sống và yêu thương, là một nơi đặc biệt để giáo dục đức tin và thực hành Kitô giáo, một nơi cần được đồng hành đặc biệt trong các cộng đồng. Sự hỗ trợ đặc biệt cần thiết cho các bậc cha mẹ là những người phải cân bằng công việc, kể cả trong cộng đồng Giáo Hội và trong việc phục vụ sứ mạng của mình, với những đòi hỏi của đời sống gia đình.
d) Nếu truyền giáo là một ân sủng liên quan đến toàn thể Giáo Hội, thì anh chị giáo dân đóng góp một cách thiết yếu vào việc thúc đẩy sứ mạng đó trong mọi lĩnh vực và trong các hoàn cảnh bình thường hàng ngày. Trên hết, chính họ là những người làm cho Giáo Hội hiện diện và loan báo Tin Mừng, chẳng hạn, trong nền văn hóa kỹ thuật số, vốn có tác động mạnh mẽ trên toàn thế giới; trong nền văn hóa của giới trẻ; trong thế giới lao động và kinh doanh, chính trị, nghệ thuật và văn hóa; trong nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo; trong việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta; và đặc biệt là thông qua việc tham gia vào đời sống cộng đồng. Bất cứ nơi nào họ hiện diện, họ được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống hàng ngày và chia sẻ đức tin một cách rõ ràng với người khác. Đặc biệt, những người trẻ, với những ân sủng và sự mỏng giòn của họ, lớn lên trong tình bạn với Chúa Giêsu, trở thành những tông đồ loan báo Tin Mừng cho bạn bè đồng trang lứa.
e) Anh chị em giáo dân cũng ngày càng hiện diện và tích cực phục vụ trong các cộng đoàn Kitô hữu. Nhiều người trong số họ tổ chức và điều hành các cộng đoàn mục vụ, phục vụ như các giáo lý viên, các nhà thần học và các nhà đào tạo, linh hướng, và tham gia vào các ban ngành giáo xứ và giáo phận. Ở nhiều khu vực, đời sống của các cộng đồng Kitô hữu và sứ mạng của Giáo Hội phụ thuộc vào các giáo lý viên. Ngoài ra, giáo dân phục vụ trong việc bảo vệ trẻ em và những người dễ bị tổn thương, cũng như các công việc quản lý hành chính trong Giáo Hội. Tất cả những đóng góp này là không thể thiếu đối với sứ mạng của Giáo Hội; Vì lý do đó, việc cung cấp các năng lực cần thiết cần thiết là điều cần được đáp ứng.
f) Với sự đa dạng vô cùng, các đặc sủng của giáo dân đại diện cho những ơn huệ riêng biệt từ Chúa Thánh Thần dành cho Giáo Hội vốn phải được kêu gọi, nhận ra và đánh giá đầy đủ. Trong một số tình huống, giáo dân có thể được kêu gọi để giúp bù đắp cho sự thiếu hụt linh mục, với nguy cơ là đặc tính giáo dân của việc tông đồ của họ có nguy cơ bị giảm bớt. Trong các bối cảnh khác, có thể là các linh mục tự làm mọi thứ và do đó các đặc sủng và thừa tác vụ của giáo dân bị bỏ qua hoặc không được sử dụng đúng mức. Trong tất cả mọi bối cảnh, có một mối nguy hiểm, được nhiều người bày tỏ tại Hội nghị, là "giáo sĩ hóa" giáo dân, tạo ra một loại dân ưu tú, duy trì sự bất bình đẳng và chia rẽ trong Dân Chúa.
g) Sứ mạng ad gentes - loan báo Tin Mừng cho muôn dân - làm phong phú cho các Giáo Hội, bởi vì nó không chỉ liên quan đến chính các nhà truyền giáo mà còn toàn thể cộng đoàn, nhờ đó được khích lệ để cầu nguyện, chia sẻ vật chất và làm chứng tá đức tin. Các Giáo Hội thiếu linh mục không nên từ bỏ cam kết này, trong khi những Giáo Hội có nhiều ơn gọi được hưởng lợi từ việc cộng tác mục vụ theo cách thực sự mang tính Tin Mừng. Tất cả các nhà truyền giáo - giáo dân nam nữ, những người sống đời sống thánh hiến, các phó tế và linh mục, và đặc biệt là các thành viên của các hội dòng truyền giáo và các nhà truyền giáo fidei donum - là một nguồn lực quan trọng để tạo ra các mối liên kết trao đổi hiểu biết và ơn sủng.
h) Sứ mạng của Giáo Hội liên tục được canh tân và nuôi dưỡng bởi bí tích Thánh Thể, đặc biệt khi bản chất cộng đoàn và truyền giáo của nó được thể hiện đầy đủ.
Các vấn đề cần xem xét
i) Cần tiếp tục đào sâu sự hiểu biết thần học về mối liên hệ giữa các đặc sủng và các thừa tác vụ theo khía cạnh truyền giáo.
j) Công đồng Vatican II và huấn quyền theo sau trình bày sứ mạng đặc thù của giáo dân trong các khía cạnh thánh hóa các thực tại trần thế hoặc thế tục. Tuy nhiên, thực tế là việc thực hành mục vụ tại giáo xứ, giáo phận và, gần đây, thậm chí ở cấp độ phổ quát, ngày càng giao phó cho giáo dân những nhiệm vụ và thừa tác vụ trong chính Giáo Hội. Suy tư thần học và các quy định giáo luật cần phải được hòa hợp với những phát triển quan trọng này và tránh thuyết nhị nguyên có thể làm tổn hại đến nhận thức về sự hiệp nhất trong sứ mạng của Giáo Hội.
k) Trong việc thúc đẩy sự đồng trách nhiệm của tất cả những người đã được rửa tội cho sứ mạng, chúng ta nhận ra khả năng tông đồ của người khuyết tật. Chúng ta muốn đánh giá cao hơn sự đóng góp cho công cuộc truyền giáo phát sinh từ sự phong phú vô bờ bến trong nhân tính của họ. Chúng tôi ghi nhận những kinh nghiệm của họ về đau khổ, bị gạt ra bên lề và phân biệt đối xử, đôi khi xảy ra ngay cả trong cộng đồng Kitô hữu.
l) Các cơ cấu mục vụ cần phải được tổ chức lại để chúng có thể dễ dàng nhận ra, kêu gọi và làm sinh động các đặc sủng và thừa tác vụ giáo dân, đưa chúng vào động lực truyền giáo của Giáo Hội hiệp hành. Dưới sự hướng dẫn của các mục tử, các cộng đoàn sẽ có thể gửi người cũng như hỗ trợ những người được sai đi truyền giáo. Bằng cách này, các cơ cấu này chủ yếu sẽ phục vụ sứ mạng mà các tín hữu thực hiện trong xã hội, trong gia đình và trong đời sống công việc, thay vì chỉ tập trung vào các vấn đề nội bộ hoặc các mối quan tâm của tổ chức.
m) Cụm từ "một Giáo Hội tất cả - sứ mạng", được sử dụng trong Tài Liệu Làm Việc, có thể dẫn đến sự hiểu lầm. Ý nghĩa của nó sẽ phải được làm rõ để loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào
Các đề xuất
n) Chúng ta cần sáng tạo hơn nữa trong việc thiết lập các thừa tác vụ theo nhu cầu của các hội thánh địa phương, với sự tham gia đặc biệt của giới trẻ. Người ta có thể nghĩ đến việc mở rộng hơn nữa các trách nhiệm được giao cho thừa tác vụ đọc sách hiện có, những trách nhiệm vốn đã rộng lớn hơn những trách nhiệm được thực hiện trong phụng vụ. Điều này có thể trở thành một chức vụ trọn vẹn hơn của Lời Chúa, trong bối cảnh thích hợp, cũng có thể bao gồm việc rao giảng. Chúng ta cũng có thể khám phá khả năng thiết lập một thừa tác vụ được giao cho các cặp vợ chồng cam kết hỗ trợ đời sống gia đình và đồng hành với những người chuẩn bị cho Bí tích Hôn phối.
o) Các Giáo Hội địa phương được mời gọi cân nhắc các phương tiện và thời điểm thích hợp để cộng đoàn ghi nhận các đặc sủng và các thừa tác vụ giáo dân. Điều này có thể xảy ra nhân dịp cử hành phụng vụ trong đó trao ban ủy thác mục vụ.
9. Phụ nữ trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội
Đúc kết ý kiến
a) Chúng ta được tạo dựng, nam cũng như nữ, theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Ngay từ đầu, sự sáng tạo biểu lộ sự thống nhất và khác biệt, ban cho phụ nữ và nam giới một bản tính, ơn gọi và số phận chung, và hai kinh nghiệm khác nhau về việc làm người. Kinh Thánh làm chứng cho sự bổ túc và hỗ tương giữa phụ nữ và nam giới, và giao ước giữa họ nằm ở trung tâm kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu coi phụ nữ là những người đối thoại của mình: Ngài nói chuyện với họ về Nước Thiên Chúa; chào đón họ làm môn đệ, ví dụ như bà Maria thành Bêtania. Những người phụ nữ này, là những người đã kinh nghiệm quyền năng chữa lành, giải thoát và nhận biết, đã đi với Ngài trên con đường từ Galilêa đến Giêrusalem (Lc 8,1-3). Ngài giao phó việc loan báo về sự Phục Sinh vào buổi sáng Phục Sinh cho một người phụ nữ, Mary Magdalene.
b) Trong Đức Kitô, phụ nữ và nam giới được mặc lấy cùng một phẩm giá rửa tội (Gl 3,28) và nhận được nhiều ân huệ khác nhau của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được mời gọi cùng nhau vào một sự hiệp thông của các mối liên hệ yêu thương, không cạnh tranh trong Đức Kitô, và đồng trách nhiệm được thể hiện ở mọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói, chúng ta là "một dân được triệu tập và kêu gọi với sức mạnh của các Mối Phúc".
c) Chúng tôi đã có một trải nghiệm rất tích cực về sự hỗ tương giữa phụ nữ và nam giới trong Hội Nghị này. Cùng nhau, chúng tôi lặp lại lời kêu gọi được đưa ra trong các giai đoạn trước của tiến trình hiệp hành, rằng Giáo Hội cần có một cam kết dứt khoát hơn để hiểu biết và đồng hành với phụ nữ từ góc độ mục vụ và bí tích. Phụ nữ mong muốn chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng của họ về hành trình hướng tới sự thánh thiện trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đời: khi còn trẻ, khi làm mẹ, trong tình bạn và các mối liên hệ của họ, trong đời sống gia đình ở mọi lứa tuổi, trong đời sống lao động và trong đời sống thánh hiến. Phụ nữ kêu gọi công lý trong các xã hội vẫn còn bị đánh dấu bởi bạo lực tình dục, bất bình đẳng kinh tế và xu hướng đối xử với họ như đồ vật. Phụ nữ bị tổn thương bởi nạn buôn người, di cư cưỡng bức và chiến tranh. Việc đồng hành mục vụ và ủng hộ mạnh mẽ cho phụ nữ nên đi đôi với nhau.
d) Phụ nữ chiếm đa số những người ngồi trong các ghế nhà thờ và thường là những nhà truyền giáo đầu tiên của đức tin trong gia đình. Các phụ nữ thánh hiến, cả trong đời sống chiêm niệm lẫn tông đồ, là một hồng ân cơ bản và đặc biệt, dấu chỉ và chứng tá ở giữa chúng ta. Lịch sử lâu dài của các nhà truyền giáo nữ, các thánh, các nhà thần học và các nhà thần bí cũng là một nguồn nuôi dưỡng và truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phụ nữ và nam giới ngày nay.
e) Đức Maria thành Nazareth, người phụ nữ của đức tin và là Mẹ Thiên Chúa, đối với tất cả mọi người vẫn là một nguồn mạch độc đáo về ý nghĩa thần học, Giáo Hội và tinh thần. Mẹ Maria nhắc nhở chúng ta về lời mời gọi phổ quát để chăm chú lắng nghe Thiên Chúa và luôn cởi mở đón nhận Chúa Thánh Thần. Mẹ biết niềm vui của việc mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng và chịu đựng đau khổ. Mẹ đã sinh con trong cảnh nghèo túng, trở thành một người tị nạn và trải qua nỗi đau mất con trong cái chết tàn bạo, nhưng Mẹ cũng biết đến sự kỳ diệu của biến cố Phục sinh và vinh quang của Lễ Hiện Xuống.
f) Nhiều phụ nữ bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công việc của các linh mục và giám mục. Họ cũng nói về một Giáo Hội làm tổn thương. Chủ nghĩa giáo sĩ trị, tư tưởng cho mình là quan trọng và những biểu hiện quyền lực không phù hợp tiếp tục gây nên những vết sẹo khuôn mặt của Giáo Hội và làm hư hại sự hiệp thông. Một sự hoán cải tâm linh sâu sắc là cần thiết làm nền tảng cho bất kỳ sự thay đổi cấu trúc hiệu quả nào. Lạm dụng tình dục và lạm dụng quyền lực và thẩm quyền tiếp tục kêu gọi công lý, chữa lành và hòa giải. Chúng tôi thắc mắc làm thế nào Giáo Hội có thể là một nơi bảo vệ tất cả mọi người.
g) Khi phẩm giá và công lý bị xói mòn trong các mối quan hệ giữa người nam và người nữ trong Giáo Hội, chúng ta làm suy yếu uy tín của lời rao giảng của chúng ta cho thế giới. Con đường hiệp hành của chúng ta cho thấy sự cần thiết phải đổi mới quan hệ và thay đổi cấu trúc. Bằng cách này, chúng ta có thể chào đón tốt hơn sự tham gia và đóng góp của tất cả mọi người - với những người nam nữ giáo dân và tận hiến, các phó tế, linh mục và giám mục - như những môn đệ đồng trách nhiệm trong công việc truyền giáo.
h) Hội nghị yêu cầu chúng ta tránh lặp lại sai lầm khi nói về phụ nữ như một vấn đề hoặc một vấn nạn. Thay vào đó, chúng tôi mong muốn thúc đẩy một Giáo Hội trong đó người nam và người nữ đối thoại với nhau, để hiểu sâu sắc hơn về ý định của của Thiên Chúa, cho thấy họ cùng nhau là những chủ thể, mà không có sự phụ thuộc, loại trừ và cạnh tranh.
Các vấn đề cần xem xét
l) Các Giáo Hội trên toàn thế giới đã bày tỏ một yêu cầu rõ ràng rằng sự đóng góp tích cực của phụ nữ được công nhận và đánh giá cao, và vai trò lãnh đạo mục vụ của họ gia tăng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Để diễn tả tốt hơn các ân sủng và đặc sủng của tất cả mọi người và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu mục vụ, làm thế nào Giáo Hội có thể cộng tác với nhiều phụ nữ hơn trong các vai trò và thừa tác vụ hiện có? Nếu cần có thừa tác vụ mới, ai sẽ phân định những điều này, ở cấp độ nào và theo cách nào?
m) Các quan điểm khác nhau đã được bày tỏ liên quan đến việc tham gia của phụ nữ vào thừa tác vụ phó tế. Đối với một số người, bước đi này sẽ không thể chấp nhận được vì họ coi đó là sự đứt đoạn với Truyền thống. Tuy nhiên, đối với những người khác, việc mở cửa cho phụ nữ tham gia chức vụ phó tế sẽ khôi phục lại việc thực hành của Giáo Hội sơ khai. Những người khác, xem điều này như một đáp trả phù hợp và cần thiết trước các dấu chỉ của thời đại, trung thành với Truyền thống, và điều đó sẽ thu hút được tiếng vang trong lòng nhiều người đang tìm kiếm năng lượng và sức sống mới trong Giáo Hội. Một số người bày tỏ lo ngại rằng yêu cầu này nói lên một sự lẫn lộn nhân học đáng lo ngại, mà, nếu được chấp thuận, sẽ khiến Giáo Hội bị đồng hóa với xu hướng thời đại..
n) Thảo luận về vấn đề này cũng liên quan đến suy tư rộng lớn hơn đang diễn ra về thần học của phó tế (xem Chương 11 dưới đây).
Các đề xuất
o) Các Giáo Hội địa phương được khuyến khích mở rộng công việc lắng nghe, đồng hành và chăm sóc cho những phụ nữ bị gạt ra bên lề xã hội nhiều nhất trong bối cảnh xã hội của họ.
p) Điều cấp bách là phải đảm bảo rằng phụ nữ có thể tham gia vào các tiến trình ra quyết định và đảm nhận vai trò trách nhiệm trong việc chăm sóc mục vụ và sứ mạng. Đức Thánh Cha đã gia tăng đáng kể số lượng phụ nữ trong các vị trí trách nhiệm trong Giáo triều Rôma. Điều này cũng nên xảy ra ở các cấp độ khác của đời sống Giáo Hội, trong đời sống thánh hiến và các giáo phận. Giáo luật cần có quy định tương ứng cho phù hợp.
q) Nghiên cứu thần học và mục vụ về việc phụ nữ tham gia vào chức phó tế nên được tiếp tục, hưởng lợi từ việc xem xét các kết quả của các ủy ban được Đức Thánh Cha thiết lập đặc biệt, và từ các nghiên cứu thần học, lịch sử và chú giải đã được tiến hành. Nếu có thể, kết quả của nghiên cứu này nên được trình bày cho Kỳ họp tiếp theo của Thượng Hội đồng.
r) Các trường hợp vi phạm lao động và thù lao không công bằng trong Giáo Hội cần phải được giải quyết, đặc biệt đối với phụ nữ trong đời sống thánh hiến, những người thường bị xuyên bị coi là lao động rẻ tiền.
s) Sự tiếp cận của phụ nữ với các chương trình đào tạo và nghiên cứu thần học cần phải được mở rộng đáng kể. Chúng tôi đề nghị rằng phụ nữ cũng nên được tham gia vào các chương trình giảng dạy và đào tạo chủng viện để thúc đẩy việc đào tạo tốt hơn cho thừa tác vụ có chức thánh.
t) Cần phải đảm bảo rằng các văn bản phụng vụ và các tài liệu của Giáo Hội chú ý hơn đến việc sử dụng ngôn ngữ có sự quan tâm bình đẳng cả nam lẫn nữ, và cũng bao gồm một loạt các từ ngữ, hình ảnh và tường thuật rút ra nhiều kinh nghiệm hơn về phụ nữ.
u) Chúng tôi đề nghị rằng phụ nữ nhận được sự đào tạo thích hợp để cho phép họ trở thành thẩm phán trong tất cả các quy trình giáo luật.
10. Đời sống thánh hiến và các hiệp hội và phong trào giáo dân: một dấu hiệu đặc sủng
Đúc kết ý kiến
a) Giáo Hội luôn được hưởng lợi từ sự ban tặng các đặc sủng, từ những điều phi thường nhất đến những điều đơn giản nhất. Qua họ, Chúa Thánh Thần làm làm mới và canh tân Giáo Hội với niềm vui và lòng biết ơn. Dân Thánh của Thiên Chúa nhận ra trong các đặc sủng này sự trợ giúp quan phòng mà qua đó Thiên Chúa hỗ trợ, hướng dẫn và soi sáng sứ mạng của Ngài.
b) Chiều kích đặc sủng của Giáo Hội được thể hiện trong những hình thức phong phú và đa dạng của đời sống thánh hiến. Chứng tá này đã góp phần canh tân đời sống của cộng đồng Giáo Hội trong mọi thời đại và cung cấp một liều thuốc giải độc để đối kháng với cám dỗ về thế tục vẫn tiếp diễn không ngừng. Các gia đình đa dạng tạo nên đời sống tu trì chứng tỏ vẻ đẹp của vai trò môn đệ và sự thánh thiện trong Đức Kitô, cho dù trong những hình thức cầu nguyện đặc biệt của họ, sự phục vụ của họ giữa mọi người, cho dù qua các hình thức của đời sống cộng đoàn, sự cô độc của đời sống chiêm niệm hoặc ở biên giới của các nền văn hóa mới. Những người trong đời sống thánh hiến thường là những người đầu tiên cảm nhận được những thay đổi lịch sử quan trọng và lưu tâm đến những thúc giục của Chúa Thánh Thần. Ngày nay cũng vậy, Giáo Hội cần tiếng nói và hành động ngôn sứ của họ. Cộng đồng Kitô hữu cũng nhìn nhận và mong muốn chú ý đến các thực hành đời sống hiệp hành và biện phân đã được thử thách và kiểm nghiệm trong các cộng đồng sống đời thánh hiến, trưởng thành qua nhiều thế kỷ. Chúng ta biết rằng chúng ta có thể học hỏi từ họ sự khôn ngoan trong cách bước đi trên con đường hiệp hành. Nhiều Dòng và tu hội thực hành cuộc đối thoại trong Thần Khí hoặc các hình thức biện phân tương tự trong việc thực hiện các công hội tỉnh và tổng công hội để đổi mới các cơ cấu, suy nghĩ lại lối sống và kích hoạt các hình thức phục vụ sáng tạo và gần gũi với những người nghèo nhất. Tuy nhiên, trong các trường hợp khác, chúng ta thấy sự tồn tại của một phong cách chuyên quyền, vốn không có chỗ cho đối thoại.
c) Với lòng biết ơn sâu xa, Dân Chúa nhận ra những mầm mống canh tân trong các cộng đoàn có lịch sử lâu dài đã nở rộ thành các cộng đồng Giáo Hội mới. Các hiệp hội giáo dân, các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới là dấu chỉ quý giá về sự trưởng thành của sự đồng trách nhiệm của tất cả những người đã được rửa tội. Họ có giá trị đặc biệt vì kinh nghiệm của họ trong việc thúc đẩy sự hiệp thông giữa các ơn gọi khác nhau, động lực mà họ loan báo Tin Mừng, sự gần gũi của họ với những người ở bên lề về kinh tế và xã hội và qua việc thúc đẩy thiện ích chung. Họ thường là những mẫu gương của sự hiệp thông hiệp hành và tham gia truyền giáo.
d) Các trường hợp lạm dụng dưới nhiều hình thức khác nhau mà những người trong đời sống tu trì và các thành viên của các hiệp hội giáo dân, đặc biệt là phụ nữ, đã trải qua một vấn đề trong việc thực thi quyền lực và đòi hỏi những can thiệp quyết đoán và thích hợp.
Các vấn đề cần xem xét
e) Huấn quyền của Giáo Hội có một hệ thống giảng dạy được phát triển tốt về tầm quan trọng của cả hai ân huệ phẩm trật và đặc sủng trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Điều này đòi hỏi sự tăng trưởng trong hiểu biết của Giáo Hội và trong suy tư thần học. Do đó, đáng để xem xét một lần nữa ý nghĩa Giáo Hội học và ý nghĩa mục vụ cụ thể của giáo huấn này.
f) Sự đa dạng của những cách diễn tả đặc sủng trong Giáo Hội nhấn mạnh cam kết của Dân Chúa trở thành một sự hiện diện ngôn sứ gần gũi với những người bé mọn nhất trong số các anh chị em của chúng ta, và cung cấp cho nền văn hóa đương đại một ý thức sâu sắc hơn về các khía cạnh thiêng liêng của cuộc sống. Cần phải phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về cách thức đời sống thánh hiến, cũng như các hiệp hội giáo dân, các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới, đặt các đặc sủng của họ vào việc phục vụ sự hiệp thông và truyền giáo trong các Giáo Hội địa phương, tăng cường các con đường hiện có hướng tới sự thánh thiện với sự hiện diện mang tính ngôn sứ.
Đề nghị
g) Chúng tôi tin rằng đã đến lúc sửa đổi tài liệu Mutuae năm 1978, liên quan đến mối quan hệ giữa các giám mục và tu sĩ trong Giáo Hội. Chúng tôi đề nghị rằng việc sửa đổi này phải được hoàn thành một cách thức đồng nghị, tham khảo ý kiến tất cả những người liên quan.
h) Để đạt được mục đích tương tự, cần phải đưa ra, trong tinh thần đồng nghị, các phương tiện và công cụ để thúc đẩy các cuộc gặp gỡ và các hình thức hợp tác giữa các Hội đồng Giám mục và các Liên hiệp Bề trên thượng cấp của các cộng đoàn Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ.
i) Ở cấp độ của cả các Giáo Hội địa phương riêng lẻ và các nhóm của các Giáo Hội, việc thúc đẩy tính hiệp hành truyền giáo đòi hỏi phải thành lập và cấu trúc các hội đồng và cơ quan tư vấn mà tại đó các đại diện của các hiệp hội giáo dân và các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới có thể gặp gỡ để thúc đẩy các mối quan hệ lâu dài giữa đời sống và công việc của họ với các Giáo Hội địa phương.
j) Trong việc đào tạo thần học ở mọi cấp độ, nhất là trong việc đào tạo các thừa tác viên thụ phong, sự nổi bật dành cho chiều kích đặc sủng của Giáo Hội cần được theo dõi và củng cố khi cần thiết.
11. Phó tế và Linh mục trong một Giáo Hội hiệp hành
Đúc kết ý kiến
a) Các linh mục là những cộng tác viên chính của giám mục, cùng với ngài tạo thành một linh mục đoàn (x. LG, số 28). Các phó tế được thụ phong cho sứ mạng phục vụ Dân Chúa trong diakonia của Lời Chúa, trong phụng vụ, nhưng trên hết là trong việc thực thi bác ái (x. LG, số 29). Thượng Hội đồng mong muốn, trước hết và trên hết, bày tỏ với các linh mục và phó tế một lòng thức biết ơn sâu sắc. Nhận thức được rằng họ có thể trải qua sự cô đơn và cô lập, hội nghị khuyến khích các cộng đồng Kitô hữu hỗ trợ họ bằng lời cầu nguyện, tình bạn và sự hợp tác.
b) Các phó tế và linh mục thực thi thừa tác vụ trong nhiều môi trường mục vụ khác nhau: trong các giáo xứ, trong việc phúc âm hóa, giữa những người sống trong nghèo đói và những người bị gạt ra bên lề, trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục, cũng như trong sứ mạng ad gentes, trong nghiên cứu thần học, tại các trung tâm tĩnh tâm và những nơi canh tân tâm linh, và nhiều nơi khác. Trong một Giáo Hội hiệp hành, các thừa tác viên thụ phong được mời gọi phục vụ Dân Chúa trong thái độ gần gũi với mọi người, đón nhận và lắng nghe tất cả mọi người, đồng thời trau dồi đời sống thiêng liêng sâu sắc và một đời sống cầu nguyện. Trên hết, họ được yêu cầu phải xem xét lại việc thực thi quyền bính, mô phỏng theo Chúa Giêsu, Đấng, "vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã, [...] trút bỏ chính mình, mang lấy thân phận nô lệ" (Pl 2,6-7). Hội nghị nhìn nhận rằng qua sự cống hiến của họ, nhiều linh mục và phó tế làm cho Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành và Người Tôi Tớ, hiện diện.
c) Một trở ngại cho công việc mục vụ và truyền giáo là chủ nghĩa giáo sĩ trị. Chủ nghĩa giáo sĩ trị bắt nguồn từ một sự hiểu lầm về ơn gọi thiêng liêng, xem nó như một đặc ân hơn là một sự phục vụ, và thể hiện chính nó trong việc thực thi quyền lực theo cách thế gian cho phép mình từ chối chịu trách nhiệm giải trình. Sự méo mó này của ơn gọi linh mục cần phải được thách thức ngay từ những giai đoạn sớm nhất của việc đào tạo bằng cách đảm bảo sự tiếp xúc gần gũi với Dân Chúa và qua những kinh nghiệm phục vụ cụ thể giữa những người đang cần trợ giúp nhất. Việc thi hành thừa tác vụ linh mục ngày nay không thể được quan niệm ngoại trừ trong sự hòa hợp với giám mục và linh mục đoàn, và trong sự hiệp thông sâu sắc với các thừa tác vụ và đặc sủng khác. Thật không may, chủ nghĩa giáo sĩ trị là một khuynh hướng có thể thể hiện không chỉ giữa các thừa tác viên mà còn giữa các giáo dân.
d) Để thực thi chức vụ phó tế và linh mục trong bối cảnh đồng trách nhiệm, cần phải ý thức được khả năng và giới hạn của chính mình. Vì lý do này, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng một cách tiếp cận thực tế đối với việc đào tạo nhân bản được tích hợp với các chiều kích văn hóa và tinh thần của việc đào tạo, cũng như đào tạo về tư cách người môn đệ. Về phương diện này, không thể đánh giá thấp sự đóng góp của các gia đình gốc và cộng đồng Kitô hữu, trong đó ơn gọi của một thanh niên được cổ vũ, cũng như của các gia đình khác đồng hành với sự tăng trưởng của anh ta, không thể bị đánh giá thấp.
Các vấn đề cần xem xét
e) Trong bối cảnh đào tạo tất cả những người đã được rửa tội để phục vụ trong một Giáo Hội hiệp hành, việc đào tạo các phó tế và linh mục đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Yêu cầu đã được bày tỏ rộng rãi tại hội nghị này rằng các chủng viện và các chương trình đào tạo linh mục khác cần kết nối với đời sống hàng ngày của cộng đồng. Chúng ta cần tránh những rủi ro của chủ nghĩa hình thức và ý thức hệ dẫn đến thái độ độc đoán, và cản trở sự phát triển ơn gọi đích thực. Việc sửa đổi các chương trình đào tạo đòi hỏi phải thảo luận và cân nhắc rộng rãi.
f) Nhiều ý kiến khác nhau đã được bày tỏ về cuộc sống độc thân linh mục. Giá trị của nó được mọi người đánh giá cao như là một lời ngôn sứ phong phú và là một nhân chứng sâu sắc cho Chúa Kitô; Tuy nhiên, một số người đặt câu hỏi liệu tính phù hợp của nó, về mặt thần học, đối với thừa tác vụ linh mục có nhất thiết phải chuyển thành một nghĩa vụ kỷ luật trong Giáo Hội Latinh hay không, nhất là trong bối cảnh Giáo Hội và văn hóa vốn làm cho nó trở nên khó khăn hơn. Cuộc thảo luận này không mới nhưng đòi hỏi sự xem xét kỹ lưỡng hơn.
Các đề nghị
g) Trong các Giáo Hội Latinh, chức phó tế vĩnh viễn đã được thực hiện theo những cách khác nhau trong các bối cảnh Giáo Hội khác nhau. Một số Giáo Hội địa phương hoàn toàn chưa giới thiệu nó; ở những nơi khác, có mối lo ngại rằng các phó tế được coi là một giải pháp thay thế cho sự thiếu hụt linh mục. Đôi khi, thừa tác vụ của họ được thể hiện trong phụng vụ hơn là phục vụ những người sống trong nghèo đói và những người thiếu thốn trong cộng đồng. Do đó, chúng tôi đề nghị một đánh giá về cách thức thừa tác vụ phó tế đã được thực hiện kể từ Công đồng Vatican II.
h) Từ quan điểm thần học, cần phải hiểu phó tế trước hết và trên hết chính là ở bản thân thừa tác vụ này và không chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp trước khi lãnh chức linh mục. Việc xác định hình thức chính của phó tế là "vĩnh viễn", để phân biệt nó với hình thức "chuyển tiếp", tự nó là một dấu hiệu của sự thay đổi quan điểm mà chưa được nhận thức đầy đủ.
i) Những bất ổn xung quanh thần học của chức phó tế có liên quan đến thực tế là nó chỉ được phục hồi thành một thừa tác vụ phẩm trật riêng biệt và vĩnh viễn trong Giáo Hội Latinh kể từ Công đồng Vatican II. Nghiên cứu sâu hơn sẽ làm sáng tỏ câu hỏi về việc truyền chức phó tế cho phụ nữ
j) Một sự xem xét toàn diện về việc đào tạo thừa tác vụ phó tế và linh mục theo quan điểm về các chiều kích truyền giáo và hiệp hành của Giáo Hội là cần thiết. Điều này có nghĩa rà soát lại bản Ratio fundamentalis quy định cách thức cấu trúc đào tạo. Chúng tôi cũng đề nghị đồng thời đảm bảo việc áp dụng một phong cách hiệp hành khi nói đến việc đào tạo liên tục các linh mục và phó tế.
k) Tính minh bạch và văn hóa chịu trách nhiệm có tầm quan trọng sống còn đối với chúng ta để tiến lên trong việc xây dựng một Giáo Hội hiệp hành. Chúng tôi yêu cầu các hội thánh địa phương xác định các quy trình và cấu trúc cho phép kiểm toán thường xuyên về cách các linh mục và phó tế đang thực hiện vai trò trách nhiệm trong việc thực hiện chức vụ của họ. Các tổ chức hiện có, chẳng hạn như các cơ quan có sự tham gia hoặc các chuyến thăm mục vụ, có thể là điểm khởi đầu cho công việc này, quan tâm đến sự tham gia của cộng đoàn. Những hình thức như vậy phải được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh địa phương và các nền văn hóa đa dạng, để không trở thành một trở ngại hoặc một gánh nặng hành chính. Việc phân định loại tiến trình cần thiết có thể được xem xét ở cấp độ khu vực hoặc lục địa.
l) Trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, và phù hợp với bối cảnh, cần xem xét khả năng tái đưa các linh mục đã rời bỏ thừa tác vụ vào các công việc mục vụ phù hợp với kinh nghiệm, trình độ đào tạo của họ.

12. Giám mục trong sự hiệp thông Giáo Hội
Đúc kết ý kiến
a) Theo Công đồng Vatican II, các giám mục, với tư cách là những người kế vị các Tông đồ, được đặt để phục vụ sự hiệp thông được thực hiện trong Giáo Hội địa phương, giữa các Giáo Hội và với toàn thể Giáo Hội. Do đó, hình ảnh giám mục chỉ có thể được hiểu một cách đầy đủ trong mạng lưới các mối tương quan được dệt nên từ phần Dân Chúa được ủy thác cho ngài, linh mục đoàn và các phó tế, những người thánh hiến, và các giám mục khác, và Giám mục Rôma, và lưu ý đến một định hướng liên tục đối với sứ mạng.
b) Giám mục, trong Giáo Hội của mình, là người chịu trách nhiệm chính trong việc loan báo Tin Mừng và phụng vụ. Ngài hướng dẫn cộng đồng Kitô hữu và thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ cho những người nghèo khó và bảo vệ những người yếu thế nhất. Là nguyên lý hữu hình của sự hiệp nhất, ngài đặc biệt có nhiệm vụ phân định và phối hợp các đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau được Chúa Thánh Thần sai đi để loan báo Tin Mừng và thiện ích chung của cộng đoàn. Thừa tác vụ này được thực hiện theo thể thức hiệp hành khi việc quản trị đi kèm với đồng trách nhiệm, rao giảng bằng cách lắng nghe Dân Chúa, và việc thánh hóa cùng cử hành phụng vụ bằng sự khiêm nhường và hoán cải.
c) Giám mục có một vai trò không thể thiếu trong việc tạo sức sống và khích lệ quá trình hiệp hành trong Giáo Hội địa phương, thúc đẩy sự hỗ tương giữa "tất cả, một số và một". Thừa tác vụ Giám mục "duy nhất ( một)" cần đánh giá cao sự tham gia của "tất cả" tín hữu, thông qua sự đóng góp của "một số" người tham gia trực tiếp hơn vào các tiến trình phân định và ra quyết định. Niềm xác tín mà chính giám mục áp dụng một cách tiếp cận hiệp hành và phong cách mà ngài thực thi thẩm quyền sẽ ảnh hưởng quyết định đến cách các linh mục và phó tế, giáo dân nam nữ, và những người trong đời sống thánh hiến, tham gia vào tiến trình hiệp hành. Giám mục được mời gọi trở thành một mẫu gương về tính hiệp hành cho tất cả mọi người.
d) Trong những bối cảnh mà Giáo Hội được coi là gia đình của Thiên Chúa, giám mục được coi như một người cha của tất cả mọi người; tuy nhiên, có một cuộc khủng hoảng liên quan đến cách thẩm quyền của ngài được trải nghiệm trong các xã hội thế tục. Điều quan trọng là đừng đánh mất bản chất bí tích của hàng giám mục, kẻo hình ảnh của giám mục bị đồng hóa vào hình ảnh của nhà cầm quyền dân sự.
e) Kỳ vọng của các giám mục thường rất cao, và nhiều giám mục nói về cảm giác quá tải với các cam kết hành chính và pháp lý, điều này gây khó khăn cho họ trong việc thực hiện đầy đủ sứ mạng của mình. Vị giám mục cũng phải chấp nhận sự yếu đuối và giới hạn của chính mình và đôi khi thiếu sự hỗ trợ mà ngài cần, dù là nhân bản hay tâm linh. Một chút cô đơn nhất định không phải là hiếm. Đó là lý do tại sao, một mặt, điều quan trọng là phải tái tập trung vào các yếu tố thiết yếu cho sứ mạng của giám mục, và mặt khác, để vun trồng tình huynh đệ đích thực giữa chính các giám mục và giữa các giám mục và linh mục của họ.
Các vấn đề cần xem xét
f) Về mặt thần học, tầm quan trọng của mối quan hệ hỗ tương giữa giám mục và Giáo Hội địa phương cần phải được làm sâu sắc hơn nhiều. Ngài được kêu gọi, vừa để hướng dẫn Giáo Hội địa phương của Ngài, vừa để nhận ra và bảo tồn sự phong phú của lịch sử, truyền thống và đặc sủng của Giáo Hội.
g) Câu hỏi về mối quan hệ giữa Bí tích Truyền Chức Thánh và quyền tài phán cần phải được nghiên cứu sâu hơn. Thông qua cuộc đối thoại với Lumen Gentium - Hiến chế Ánh sáng Muôn Dân và các giáo huấn gần đây hơn như Tông hiến Praedicate Evangelium, mục đích của một nghiên cứu như vậy sẽ là làm sáng tỏ các tiêu chuẩn thần học và giáo luật làm nền tảng cho nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm của giám mục và xác định phạm vi, hình thức và ý nghĩa của việc đồng trách nhiệm.
h) Một số giám mục bày tỏ sự không thoải mái khi họ được yêu cầu nói về các vấn đề đức tin và luân lý, nơi thiếu sự đồng thuận hòa toàn trong trong Hội đồng Giám mục. Cần suy tư thêm về mối quan hệ giữa tính hợp đoàn giám mục và sự đa dạng của các quan điểm thần học và mục vụ.
i) Một phần không thể thiếu trong một Giáo Hội hiệp hành là đảm bảo một nền văn hóa minh bạch và tôn trọng các thủ tục được thiết lập để bảo vệ trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương. Cần phải phát triển thêm các cấu trúc dành riêng cho việc ngăn ngừa lạm dụng. Vấn đề nhạy cảm của việc xử lý lạm dụng đặt nhiều giám mục vào tình huống khó khăn khi phải dung hòa vai trò của người cha với vai trò của thẩm phán. Việc giao nhiệm vụ tư pháp cho một cơ quan khác, cần được xác định theo giáo luật, cần được xem xét.
Các đề nghị
j) Cần phải thực hiện, dưới các hình thức pháp lý chưa được xác định, các cấu trúc và quy trình để xem xét định kỳ về chất lượng và hiệu quả hoạt động của một giám mục của giám mục, có liên quan đến phong cách quyền bính của ngài, quản lý kinh tế tài sản của giáo phận, và hoạt động của các cơ quan có sự tham vấn, và bảo vệ chống lại tất cả các loại lạm dụng có thể xảy ra. Văn hóa trách nhiệm giải trình là một phần không thể thiếu của một Giáo Hội hiệp hành thúc đẩy đồng trách nhiệm, cũng như bảo vệ chống lại các lạm dụng.
k) Có những lời kêu gọi làm cho Hội đồng Giám mục (Giáo luật 473, §4), Hội đồng Mục vụ Giáo phận và Hội đồng Mục vụ Eparchial (CIC can. 511, CCEO can 272) trở nên bắt buộc, và làm cho các cơ quan giáo phận thực hiện đồng trách nhiệm hiệu quả hơn, bao gồm cả về mặt pháp lý.
l) Hội nghị kêu gọi xem xét lại các tiêu chí để lựa chọn các ứng cử viên cho hàng giám mục, cân bằng thẩm quyền của Sứ thần Tòa Thánh với sự tham gia của các Hội đồng Giám mục. Cũng có những yêu cầu mở rộng tham vấn với Dân Chúa trung thành, và liên quan đến một số lượng lớn hơn giáo dân và những người tận hiến trong quá trình tham vấn, cẩn thận để tránh bị đặt dưới bất kỳ áp lực quá mức nào trong quá trình lựa chọn.
m) Nhiều giám mục bày tỏ sự cần thiết phải suy nghĩ lại về chức năng và củng cố cấu trúc của các tổng giáo phận (giáo tỉnh) và các khu vực, để chúng có thể trở thành những biểu hiện cụ thể của tính hợp đoàn trong một lãnh thổ và, thông qua tình huynh đệ, hỗ trợ lẫn nhau, minh bạch và tham vấn rộng rãi hơn, trở thành những thực hành phổ biến giữa các giám mục.
13. Giám mục Rôma trong Giám mục đoàn
Đúc kết ý kiến
a) Động lực hiệp hành cũng làm sáng tỏ thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Thật vậy, tính hiệp hành diễn tả hài hòa các chiều kích cộng đồng ("tất cả"), hợp đoàn ("một số") và cá nhân ("một") của Giáo Hội ở cấp địa phương, khu vực và phổ quát. Trong một tầm nhìn như vậy, thừa tác vụ Phêrô của Giám mục Rôma là bản chất động lực hiệp hành, cũng như khía cạnh cộng đoàn bao gồm toàn thể Dân Chúa và chiều kích hợp đoàn của việc thi hành thừa tác vụ Giám mục. Do đó, tính hiệp hành, tính hợp đoàn và quyền bính có liên quan đến nhau: quyền bính giả định việc thực hiện tính hiệp hành và tính hợp đoàn, giống như cả hai đều ngụ ý việc thực hiện quyền bính.
b) Thúc đẩy sự hiệp nhất của tất cả các Kitô hữu là một khía cạnh thiết yếu của thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Hành trình đại kết đã làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về thừa tác vụ của Người Kế Vị Thánh Phêrô và phải tiếp tục làm như vậy trong tương lai. Những phản hồi đối với lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II trong thông điệp Ut unum sint, cũng như các kết luận của các cuộc đối thoại đại kết, có thể giúp Công giáo hiểu được quyền bính, tính hợp đoàn, tính đồng nghị và các mối quan hệ hỗ tương của chúng.
c) Cải cách Giáo triều Rôma là một khía cạnh quan trọng trong hành trình hiệp hành của Giáo Hội Công giáo. Tông Hiến Praedicate evangelium nhấn mạnh rằng "Giáo triều Rôma không đứng giữa Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục, thay vào đó Giáo Triều tự đặt mình vào việc phục vụ cả hai theo những cách thức phù hợp với bản chất của mỗi bên" (EP I.8). Nó thúc đẩy cải cách dựa trên "đời sống hiệp thông" (EP I.4) và "phân quyền lành mạnh" (EP II.2). Thực tế cho thấy việc nhiều thành viên của các bộ Rôma là các Giám mục giáo phận thể hiện tính công giáo của Giáo Hội và nên thúc đẩy mối quan hệ giữa Giáo triều và các Giáo Hội địa phương. Việc thực hiện hiệu quả Tông hiến Predicate evangelium có thể thúc đẩy tính hiệp hành lớn hơn trong Giáo triều cả giữa các bộ khác nhau và trong mỗi bộ.
Các vấn đề cần xem xét
d) Cần có thêm nhận thức sâu sắc hơn về việc cách hiểu biết mới về hàng giám mục trong một Giáo Hội hiệp hành ảnh hưởng đến thừa tác vụ của Giám mục Rôma và vai trò của Giáo triều Rôma như nào. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với cách sống đồng trách nhiệm trong việc quản trị Giáo Hội. Ở cấp độ phổ quát, Bộ luật Giáo Luật và Bộ Giáo luật của các Giáo Hội Đông phương cung cấp các điều khoản cho việc thực hiện sứ vụ giáo hoàng mang tính hợp đoàn hơn. Những điều này có thể được phát triển hơn nữa trong thực tiễn và được củng cố trong bản cập nhật trong tương lai của cả hai văn kiện.
e) Tính hiệp hành có thể làm sáng tỏ những cách thức mà các Hồng y có thể cộng tác trong thừa tác vụ Phêrô và những cách thức mà sự phân định hợp đoàn của họ có thể được thúc đẩy trong các công nghị thường kỳ và ngoại thường.
f) Điều quan trọng đối với lợi ích của Giáo Hội là nghiên cứu những cách thích hợp nhất để thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và các mối dây hiệp thông giữa các thành viên của Hồng y đoàn, đồng thời cũng lưu ý đến sự đa dạng về nguồn gốc và văn hóa của họ.
Đề nghị
g) Các chuyến thăm Tông Tòa ad limina Apostolorum là khoảnh khắc tối cao trong mối quan hệ giữa các mục tử của các Giáo Hội địa phương với Giám mục Rôma và các cộng tác viên thân cận nhất của ngài trong Giáo triều Rôma. Cần phải xem lại hình diễn ra các cuộc thăm viếng này để chúng luôn trở thành dịp trao đổi cởi mở và hỗ tương, thúc đẩy sự hiệp thông và thực hành thực sự tính hợp đoàn và tính hiệp hành.
h) Dưới ánh sáng của cấu trúc hiệp hành trong Giáo Hội, các bộ của Giáo triều Rôma cần tăng cường tham khảo ý kiến của các giám mục, chú ý nhiều hơn đến sự đa dạng của các tình huống và lắng nghe chú tâm hơn tiếng nói của các Giáo Hội địa phương.
i) Có vẻ thích hợp để thiết lập các hình thức đánh giá công việc của các Đại diện Giáo hoàng bởi các Giáo Hội địa phương tại các quốc gia nơi họ thực hiện sứ mạng của mình để tạo
điều kiện và hoàn thiện việc phục vụ của họ.
j) Được đề xuất làm tăng cường và củng cố kinh nghiệm của Hội Đồng Hồng Y (C-9) như là một hội đồng đồng hành phục vụ.
k) Dưới ánh sáng của giáo huấn của Công đồng Vatican II, cần phải đánh giá cẩn thận liệu có thích hợp để tấn phong các giám sĩ của Giáo triều Rôma làm giám mục hay không.

PHẦN III:
DỆT NÊN LIÊN KẾT, XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN


14. Một cách tiếp cận đào tạo theo tinh thần hiệp hành
Đúc kết ý kiến
a) Bất kỳ ai đã chịu phép rửa tội đều được mời gọi chăm sóc việc đào tạo của chính mình để đáp lại các hồng ân Chúa ban, sử dụng những tài năng để sinh hoa trái và phục vụ tất cả mọi người. Thời gian Chúa Giêsu dành riêng cho việc đào tạo các môn đệ của Người cho thấy tầm quan trọng của việc đào tạo mang chiều kích Giáo Hội này. Điều này thường xảy ra trong âm thầm nhưng lại mang tính quyết định cho sứ mạng. Chúng tôi muốn bày tỏ một lời cảm ơn và khích lệ đối với tất cả những người đang dấn thân vào công việc này và mời gọi họ chào đón những định hướng mới liên quan đến việc đào tạo nảy sinh từ hành trình hiệp hành của Giáo Hội.
b) Cách Chúa Giêsu đào tạo các môn đệ trở thành mẫu mực mà chúng ta cần phải noi theo. Ngài không chỉ truyền đạt sự giảng dạy mà còn chia sẻ cuộc sống của Ngài với họ. Qua ví dụ về gương mẫu cầu nguyện của chính Ngài, các ông đã thỉnh cầu: 'Xin dạy chúng con cầu nguyện'. Bằng cách cho đám đông ăn, Ngài dạy họ đừng gạt bỏ những người túng thiếu. Bằng cách đi đến Giêrusalem, Ngài đã chỉ đường đến Thập tự giá. Từ Tin Mừng, chúng ta biết rằng việc đào tạo không chỉ hoặc chủ yếu là củng cố khả năng của bản thân; đó là một sự hoán cải theo logic của Nước Trời có thể làm cho ngay cả thất bại và sai lầm cũng mang lại kết quả.
c) Dân Thánh của Thiên Chúa không chỉ là đối tượng mà trước hết và trên hết là chủ thể đồng trách nhiệm của việc đào tạo. Đào tạo đầu tiên, trên thực tế, diễn ra trong gia đình. Chính ở đây mà chúng ta thường nhận được lời công bố đầu tiên về đức tin bằng ngôn ngữ - thực sự bằng phương ngữ - của cha mẹ và ông bà của chúng ta. Do đó, những người thi hành thừa tác vụ trong Giáo Hội phải đan xen sự đóng góp của họ với sự khôn ngoan của tất cả Dân Chúa trung thành trong một sự hợp tác không thể thiếu đối với cộng đoàn. Đây là dấu hiệu đầu tiên của một sự đào tạo được hiểu theo nghĩa hiệp hành.
d) Trong sự khai tâm Kitô giáo, chúng ta tìm thấy hướng dẫn về cách đi trên con đường đào tạo của mình. Trọng tâm của việc đào tạo Kitô giáo là đào sâu kerygma, nghĩa là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô mang lại cho chúng ta hồng ân của một cuộc sống mới. Logic giáo lý dự tòng nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân được mời gọi nên thánh. Đây là lý do tại sao chúng ta dấn thân vào một cuộc hành trình hướng tới sự hoán cải cá nhân mà Bí Tích Hòa Giải mang lại sự hoàn thành. Đây cũng là lý do tại sao chúng ta nuôi dưỡng ước muốn nên thánh, được hỗ trợ bởi rất nhiều các chứng nhân.
e) Có rất nhiều lĩnh vực mà Dân Chúa cần được đào tạo. Ngoài việc đào tạo thần học, Hội Nghị yêu cầu đào tạo các kỹ năng cụ thể: thực hiện đồng trách nhiệm, lắng nghe và phân định; tiến hành đối thoại đại kết và liên tôn, phục vụ người nghèo nhất và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta; tham gia với tư cách là "những nhà truyền giáo kỹ thuật số", tạo điều kiện thuận lợi cho các tiến trình phân định, Đối thoại trong Thần khí, xây dựng sự đồng thuận và giải quyết xung đột. Cũng cần chú ý đặc biệt đến việc đào tạo giáo lý cho trẻ em và thanh thiếu niên, vốn cần có sự tham gia tích cực của cộng đoàn.
f) Việc đào tạo cho một Giáo Hội hiệp hành cần phải được thực hiện một cách hiệp hành: toàn thể Dân Chúa được đào tạo cùng nhau khi họ cùng nhau hành trình. Cần phải vượt qua tư duy 'ủy quyền' được tìm thấy trong rất nhiều lĩnh vực của thừa tác vụ mục vụ. Việc đào tạo theo đường lối hiệp hành có nghĩa là giúp Dân Chúa sống ơn gọi rửa tội của họ một cách trọn vẹn, trong gia đình, tại nơi làm việc, trong các lĩnh vực Giáo Hội, xã hội và trí thức. Nó có nghĩa là giúp mỗi người tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội theo các đặc sủng và ơn gọi của riêng mình.
Các vấn đề cần xem xét
g) Chúng tôi đề nghị tiến hành công việc về giáo dục mối quan hệ và giới tính để đồng hành với người trẻ khi họ trưởng thành trong nhận thức cá nhân và bản sắc giới tính của mình và để hỗ trợ sự trưởng thành của những người được kêu gọi sống độc thân và khiết tịnh thánh hiến. Đào tạo trong các lĩnh vực này là một trợ giúp cần thiết ở tất cả mọi giai đoạn của cuộc sống.
h) Điều quan trọng là phải đào sâu cuộc đối thoại giữa lĩnh vực khoa học nhân văn, đặc biệt là tâm lý học và thần học, nhằm hiểu được kinh nghiệm nhân sinh không chỉ đặt các phương pháp này cạnh nhau mà còn tích hợp chúng vào một tổng hợp trưởng thành hơn.
i) Dân Chúa cần được đại diện rộng rãi trong các chương trình đào tạo thừa tác vụ phó tế và linh mục, như đã được các Thượng Hội đồng trước đây yêu cầu. Do đó, chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng các chương trình đào tạo, đặc biệt chú ý đến cách chúng ta có thể thúc đẩy sự đóng góp của phụ nữ và gia đình vào các chương trình đó.
j) Các Hội đồng Giám mục được khuyến khích hợp tác cùng nhau ở cấp khu vực để tạo ra một nền văn hóa đào tạo và học tập suốt đời, sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có, bao gồm cả việc phát triển các lựa chọn kỹ thuật số.
Đề nghị
k) Dưới ánh sáng của tính hiệp hành, chúng tôi đề xuất rằng cần ưu tiên cho việc cung cấp các chương trình được thiết kế và dành cho việc đào tạo chung toàn thể Dân Chúa (giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ ). Các giáo phận nên cố gắng khuyến khích các dự án này trong các Giáo Hội địa phương. Chúng tôi khuyến khích các Hội đồng Giám mục làm việc cùng nhau ở cấp khu vực để tạo ra một nền văn hóa đào tạo liên tục, sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có, bao gồm cả việc phát triển các lựa chọn kỹ thuật số.
l) Một loạt các thành viên của Dân Chúa nên được đại diện trong các chương trình đào tạo cho các thừa tác vụ phó tế và linh mục, như đã được yêu cầu bởi các Thượng Hội đồng trước. Sự tham gia của phụ nữ có tầm quan trọng đặc biệt.
m) Cần áp dụng các tiêu chuẩn và quy trình thích hợp để lựa chọn các ứng cử viên cho thừa tác vụ tư tế để đảm bảo rằng các yêu cầu cho năm tu đức cho các chủng sinh được đáp ứng.
n) Việc đào tạo nên được thiết kế theo cách phù hợp với một Giáo Hội hiệp hành trong các bối cảnh địa phương khác nhau. Trước khi bước vào những con đường cụ thể, các ứng viên nên có một kinh nghiệm quan trọng, mặc dù ban đầu, về cuộc sống trong một cộng đoàn Kitô hữu. Việc đào tạo không nên tạo ra một môi trường nhân tạo tách biệt với cuộc sống bình thường của các tín hữu. Bằng cách bảo vệ những yêu cầu của việc đào tạo thừa tác vụ, chúng ta có thể thúc đẩy một tinh thần phục vụ chân thành cho Dân Chúa trong việc rao giảng, cử hành các bí tích và thực thi bác ái. Điều này có thể đòi hỏi phải sửa đổi Ratio fundamentalis cho các linh mục và phó tế vĩnh viễn.
o) Để chuẩn bị cho kỳ họp tiếp theo của Thượng Hội đồng, một cuộc tham vấn ý kiến của những người chịu trách nhiệm về việc đào tạo sơ khởi và thường huấn của các linh mục nên được thực hiện để đánh giá tiến trình hiệp hành đang được tiếp nhận như thế nào và đề xuất những thay đổi sẽ thúc đẩy việc thực thi thẩm quyền theo đường lối phù hợp với một Giáo Hội hiệp hành.
15. Sự phân định của Giáo Hội và những câu hỏi mở
Đúc kết ý kiến
a) Kinh nghiệm về Đối Thoại trong Thần Khí đã làm phong phú cho tất cả những người tham gia. Phong cách giao tiếp của chúng tôi, ưu tiên tự do trong việc bày tỏ quan điểm và lắng nghe lẫn nhau, được đánh giá rất cao. Nó giúp cho chúng ta tránh di chuyển quá nhanh đến một cuộc tranh luận dựa trên việc lặp lại quan điểm của chính mình mà không lắng nghe trước tiên lý lẽ ủng hộ quan điểm của người khác.
b) Cách tiếp cận cơ bản này tạo ra một bối cảnh cho phép xem xét cẩn thận các vấn đề gây tranh cãi trong Giáo Hội, chẳng hạn như các tác động về nhân học của các công nghệ kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo, bất bạo động và tự vệ hợp pháp, các vấn đề liên quan đến thừa tác vụ, và các vấn đề liên quan đến tính dục và "thân xác", trong số những vấn đề khác.
c) Để phát triển sự phân định đích thực của Giáo Hội trong những lãnh vực này và các lĩnh vực khác, cần phải tiếp cận những câu hỏi này dưới ánh sáng của Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, được nhận biết và suy tư đúng đắn. Để tránh lặp lại các công thức trống rỗng, chúng ta cần tạo cơ hội cho một cuộc đối thoại liên quan đến khoa học xã hội và nhân văn, cũng như suy tư triết học và thần học.
d) Trọng tâm của nhiều vấn đề gây tranh cãi này là câu hỏi về mối quan hệ giữa tình yêu và sự thật và tác động của điều này đối với nhiều vấn đề gây tranh cãi. Mối quan hệ này, trước khi được coi là một thách thức, thực sự được coi là một ân sủng được mặc khải trong Chúa Kitô. Vì Chúa Giêsu đã thực hiện lời hứa được tìm thấy trong các Thánh vịnh: "Tình yêu và sự thật sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ bao trùm. Sự thật sẽ nảy mầm từ trái đất và công lý sẽ đến từ trời cao" (Tv 85,11-12).
e) Một số đoạn Tin Mừng tiết lộ rằng Chúa Giêsu gặp gỡ con người trong sự độc đáo của câu chuyện và hoàn cảnh cá nhân của họ. Ngài không bao giờ bắt đầu từ quan điểm của những thành kiến hay nhãn mác, nhưng từ tính xác thực của mối tương quan mà ngài cam kết toàn tâm toàn ý, ngay cả khi phải trả giá bằng việc trải qua sự hiểu lầm và từ chối. Chúa Giêsu luôn lắng nghe tiếng kêu cứu của những người cần giúp, ngay cả trong những tình huống mà nó không được bày tỏ. Ngài đến với họ bằng các cử chỉ truyền đạt tình yêu và khôi phục sự lòng tin; Ngài làm cho sự sống mới có thể xảy ra với sự hiện diện của Ngài: những ai gặp Ngài ra đi đều được biến đổi. Điều này xảy ra bởi vì sự thật mà Chúa Giêsu là người mang lại không phải là một ý tưởng, nhưng là chính sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta; và tình yêu mà Người hành động không chỉ là một cảm giác, nhưng là công lý của Nước Trời làm thay đổi lịch sử.
f) Chúng ta chỉ có thể hỗ trợ người khác nếu chính mình đang trải qua sự hoán cải, cả cá nhân lẫn cộng đồng. Khó khăn chúng ta gặp phải trong việc diễn tả tầm nhìn Tin Mừng rõ ràng của Chúa Giêsu thành những lựa chọn mục vụ là một dấu hiệu của cuộc đấu tranh để sống theo Tin Mừng. Nếu chúng ta sử dụng giáo lý một cách khắc nghiệt và với thái độ phán xét, chúng ta phản bội Tin Mừng; nếu chúng ta thực hành lòng thương xót 'rẻ tiền', chúng ta không truyền đạt tình yêu của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất giữa chân lý và tình yêu bao hàm việc gánh vác những khó khăn của người khác, thậm chí biến chúng thành khó khăn của chính mình, như điều xảy ra giữa anh chị em. Tuy nhiên, sự hiệp nhất này chỉ có thể đạt được bằng cách kiên nhẫn đi theo con đường đồng hành.
g) Một số vấn đề, chẳng hạn như những vấn đề liên quan đến danh tính và tính dục, giai đoạn cuối cuộc đời, các tình huống hôn nhân phức tạp và các vấn đề đạo đức liên quan đến trí tuệ nhân tạo, đang gây tranh cãi không chỉ trong xã hội, mà còn trong Giáo Hội, vì chúng đặt ra những câu hỏi mới. Đôi khi các phạm trù nhân học mà chúng ta đã phát triển không thể nắm bắt được sự phức tạp của các yếu tố xuất hiện từ kinh nghiệm hoặc kiến thức trong khoa học và đòi hỏi độ chính xác cao hơn và nghiên cứu sâu hơn. Điều quan trọng là phải dành thời gian cần thiết cho suy tư này và đầu tư năng lượng tốt nhất của chúng ta vào nó, mà không đầu hàng trước những phán xét đơn giản làm tổn thương các cá nhân và Thân thể của Giáo Hội. Giáo huấn của Giáo Hội đã cung cấp một ý thức hướng dẫn về nhiều vấn đề này, nhưng giáo huấn này rõ ràng vẫn đòi hỏi phải diễn tả trong thực hành mục vụ. Ngay cả khi cần phải làm sáng tỏ thêm, hành động của Chúa Giêsu, được đồng hóa trong lời cầu nguyện và hoán cải tâm hồn, chỉ cho chúng ta con đường phía trước.
Các vấn đề cần xem xét
h) Cần phải tiếp tục suy tư về sự gắn kết nguyên thủy giữa tình yêu và chân lý tuôn chảy từ mạc khải Kitô học, với quan điểm về một thực hành Giáo Hội trung thành với những nguồn gốc này.
i) Chúng tôi khuyến khích các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau kết hợp kiến thức chuyên môn của họ với đời sống tâm linh cá nhân để những đóng góp của họ thực sự phục vụ Giáo Hội. Ý nghĩa của tính hiệp hành trong bối cảnh này là sự sẵn sàng cùng nhau suy nghĩ phục vụ sứ mạng truyền giáo trong những bối cảnh khác nhau, nhưng vẫn chia sẻ một mục đích, định hướng chung.
j) Chúng tôi xác định nhu cầu suy tư về các điều kiện cho phép nghiên cứu thần học và văn hóa lấy điểm khởi đầu là kinh nghiệm hàng ngày của Dân Thánh của Thiên Chúa và đặt mình vào việc phục vụ.
Đề nghị
k) Chúng tôi đề nghị rằng các sáng kiến cho phép chia sẻ sự phân định về các vấn đề giáo lý, mục vụ và đạo đức gây tranh cãi nên được phát triển, dưới ánh sáng của Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội, suy tư thần học và đánh giá cao kinh nghiệm hiệp hành. Điều này có thể được thực hiện thông qua các cuộc thảo luận chuyên sâu giữa các chuyên gia với các kỹ năng và nền tảng đa dạng, trong một môi trường thể chế bảo vệ tính bảo mật và thúc đẩy thảo luận thẳng thắn. Khi thích hợp, nó cũng nên liên quan đến những người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các vấn đề đang được xem xét. Những sáng kiến như vậy nên được đưa ra trước Kỳ họp tiếp theo của Thượng Hội đồng.

16. Hướng tới một Giáo Hội lắng nghe và đồng hành
Đúc kết ý kiến
a) Trong hai năm đầu tiên của hành trình hiệp hành, kể cả trong Hội Nghị, lắng nghe là từ diễn tả tốt nhất kinh nghiệm của chúng ta. Đó là sự lắng nghe, cho và nhận. Lắng nghe là một thực tại nhân bản sâu sắc, một động lực của sự hỗ tương trong đó mỗi người đóng góp vào hành trình của người khác trong khi nhận được sự đóng góp cho hành trình của chính mình.
b) Nhiều người đã tham gia vào tiến trình hiệp hành ở cấp địa phương, và đặc biệt là những người đã phải chịu đựng những hình thức bị gạt ra bên lề Giáo Hội hoặc xã hội đã rất ngạc nhiên trước lời mời gọi nói lên suy nghĩ và được lắng nghe trong Giáo Hội và bởi Giáo Hội. Được lắng nghe sâu sắc là một kinh nghiệm khẳng định và công nhận phẩm giá, và là một cách mạnh mẽ để thu hút mọi người và cộng đồng.
c) Đặt Chúa Giêsu vào trung tâm cuộc sống của chúng ta đòi hỏi một mức độ tự từ bỏ nào đó. Theo quan điểm này, lắng nghe có nghĩa là sẵn sàng ‘ đưa mình ra khỏi trung tâm chú ý' để dành không gian cho người khác. Chúng ta đã trải nghiệm điều này trong sự năng động của các cuộc đối thoại trong Chúa Thánh Thần. Đây là một bài tập tu đức đòi hỏi bắt buộc mỗi người phải nhận ra những hạn chế của chính mình và tính chủ quan trong quan điểm của mình. Vì lý do này, nó mở ra khả năng lắng nghe tiếng nói của Thần Khí Thiên Chúa nói với những người bên ngoài biên giới của cộng đồng Giáo Hội, và có thể bắt đầu một hành trình thay đổi và hoán cải.
d) Lắng nghe có một ý nghĩa Kitô học; nó có nghĩa là áp dụng thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Ngài gặp gỡ (x. Pl 2,6-11). Nó cũng có một giá trị Giáo Hội học, vì chính Giáo Hội đang lắng nghe qua hành động của những người đã được rửa tội, những người hành động không chỉ nhân danh họ mà còn nhân danh cộng đoàn.
e) Giáo Hội đã gặp gỡ nhiều người và các nhóm dọc theo tiến trình hiệp hành yêu cầu được lắng nghe và đồng hành. Trước hết, chúng tôi đề cập đến những người trẻ, những người mà yêu cầu lắng nghe và đồng hành của họ đã gây được tiếng vang mạnh mẽ trong Thượng Hội đồng dành riêng cho họ (2018) và trong Đại hội này, xác nhận sự cần thiết phải có một lựa chọn ưu tiên cho người trẻ.
f) Giáo Hội cần lắng nghe với sự quan tâm và nhạy cảm đặc biệt đối với tiếng nói của các nạn nhân và những người sống sót sau sự lạm dụng tình dục, tinh thần, kinh tế, thể chế, quyền lực và lương tâm của các thành viên giáo sĩ hoặc những người được Giáo Hội bổ nhiệm. Lắng nghe đích thực là một yếu tố cơ bản của con đường chữa lành, ăn năn, công lý và hòa giải.
g) Hội nghị bày tỏ sự gần gũi và hỗ trợ cho tất cả những ai chấp nhận ở một mình như một lựa chọn được thực hiện trong sự trung thành với Truyền thống và Huấn quyền của Giáo Hội về hôn nhân và đạo đức tính dục, mà họ nhận ra là nguồn sống. Các cộng đồng Kitô hữu được mời gọi gần gũi với họ, lắng nghe họ và đồng hành với họ trong cam kết của họ.
h) Theo những cách khác nhau, những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ khỏi Giáo Hội vì tình trạng hôn nhân, căn tính hoặc tính dục của họ cũng yêu cầu được lắng nghe và đồng hành. Có một ý nghĩa sâu sắc về tình yêu, lòng thương xót và lòng trắc ẩn được cảm nhận trong Hội nghị đối với những người đang hoặc cảm thấy bị tổn thương hoặc bị Giáo Hội bỏ rơi, những người muốn có một nơi để gọi là "nhà" nơi họ có thể cảm thấy an toàn, được lắng nghe và tôn trọng, mà không sợ cảm thấy bị phán xét. Lắng nghe là điều kiện tiên quyết để cùng nhau bước đi tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa. Đại hội nhắc lại rằng các Kitô hữu phải luôn thể hiện sự tôn trọng phẩm giá của mỗi người.
i) Những người chịu đựng nhiều hình thức nghèo đói, loại trừ và gạt ra bên lề xã hội khác nhau trong các xã hội bất bình đẳng của chúng ta cũng quay về với Giáo Hội để tìm kiếm tình yêu, lắng nghe và đồng hành. Việc lắng nghe này cho phép Giáo Hội hiểu được thực tại của nghèo đói và bị gạt ra bên lề, và đến gần gũi trong tình bạn với những người đau khổ. Điều quan trọng là nó cũng cho phép Giáo Hội được rao giảng Tin Mừng bởi những người đau khổ. Lắng nghe họ cho phép Giáo Hội hiểu quan điểm của họ và đặt mình một cách cụ thể bên cạnh họ, và được họ rao giảng Tin Mừng. Chúng tôi cảm ơn và khuyến khích tất cả những người đang tham gia vào việc phục vụ lắng nghe và đồng hành với những người đang ở trong tù. Đặc biệt, họ cần cảm nghiệm được tình yêu thương xót của Chúa và không cảm thấy bị cô lập khỏi cộng đoàn. Thay mặt Giáo Hội, họ nhận ra những lời của Chúa "Ta ở trong tù và các con đến thăm Ta" (Mt 25,36).
j) Nhiều người trải qua một tình trạng cô đơn gần như bị bỏ rơi. Người già và người bệnh thường trở nên vô hình trong xã hội. Chúng tôi khuyến khích các giáo xứ và cộng đồng Kitô hữu gần gũi với họ và lắng nghe họ. Những việc làm của lòng thương xót được gợi hứng bởi những lời Tin Mừng "Tôi bị bệnh và anh đến thăm tôi" (Mt 25,39) có một ý nghĩa sâu xa đối với những người liên quan và thúc đẩy các mối liên kết rộng lớn hơn của cộng đồng.
k) Cuối cùng, Giáo Hội muốn lắng nghe tất cả mọi người, không chỉ những người có thể dễ dàng làm cho tiếng nói của họ được lắng nghe nhất. Ở một số vùng, vì lý do văn hóa và xã hội, các thành viên của một số nhóm nhất định, chẳng hạn như giới trẻ, phụ nữ và các nhóm thiểu số, có thể thấy khó khăn hơn để tự do bày tỏ ý kiến trong không gian công cộng hoặc Giáo Hội. Sống dưới các chế độ áp bức và độc tài cũng làm xói mòn sự tự do này. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi việc thực thi quyền bính trong cộng đồng Kitô hữu trở nên áp bức hơn là giải phóng.
Các vấn đề cần xem xét
l) Việc lắng nghe đòi hỏi sự chấp nhận vô điều kiện. Nó không có nghĩa là thỏa hiệp việc loan báo Tin Mừng hoặc tán thành bất kỳ ý kiến hoặc lập trường nào được đề xuất. Chúa Giêsu đã mở ra những chân trời và nẻo đường mới cho những người mà Ngài lắng nghe vô điều kiện, và để chia sẻ Tin Mừng cứu độ với những người chúng ta gặp gỡ, chúng ta được mời gọi làm như vậy.
m) Phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, các cộng đồng Kitô hữu nhỏ thúc đẩy các thực hành lắng nghe và giữa những người đã được rửa tội. Chúng ta được kêu gọi nâng cao tiềm năng của họ, đặc biệt, đặc biệt bằng cách tìm hiểu làm thế nào họ có thể được thích nghi với các bối cảnh đô thị.
Đề nghị
n) Điều gì sẽ cần phải thay đổi để những người cảm thấy bị loại trừ để cảm nghiệm Giáo Hội là một nơi mở cửa đón nhận nhiều hơn? Lắng nghe và đồng hành là một hình thức hành động của Giáo Hội, không chỉ là hành động của các cá nhân. Do đó, chúng phải tìm một chỗ đứng trong kế hoạch mục vụ thông thường và cơ cấu hoạt động của các cộng đồng Kitô hữu ở các cấp độ khác nhau, tận dụng triệt để sự đồng hành thiêng liêng. Một Giáo Hội hiệp hành cần phải là một Giáo Hội lắng nghe và cam kết này phải được chuyển thành thực hành.
o) Chúng tôi không bắt đầu công việc này từ con số không. Nhiều tổ chức và cơ cấu thực hiện nhiệm vụ giá trị là lắng nghe, bao gồm công việc đồng hành của Caritas giữa những người nghèo nhất, và giữa những người di cư và tị nạn, và nhiều bối cảnh đồng hành khác liên quan đến đời sống thánh hiến hoặc các hiệp hội giáo dân. Kết nối công việc của họ một cách toàn diện hơn với cộng đồng Giáo Hội địa phương cho phép công việc này được xem như là một phần của cuộc sống của toàn thể cộng đồng, chứ không phải là một nhiệm vụ được ủy thác.
p) Những người thực hiện việc lắng nghe và đồng hành, dưới nhiều hình thức khác nhau, cần được đào tạo đầy đủ, tính đến kinh nghiệm của những người họ tiếp xúc. Họ cũng cần cảm thấy được cộng đồng hỗ trợ. Về phần mình, các cộng đoàn nên ý thức đầy đủ về ý nghĩa của việc phục vụ này được thực hiện thay mặt cho họ và đón nhận thành quả của việc lắng nghe này. Chúng tôi đề nghị thành lập một thừa tác vụ lắng nghe và đồng hành để nâng cao tầm quan trọng của sự phục vụ này. Nó nên được đặt nền tảng trong phép rửa và thích nghi với các bối cảnh khác nhau. Cách thức trao chức vụ này nên thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng.
q) SECAM (Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar) được khuyến khích thúc đẩy sự phân định thần học và mục vụ về vấn đề đa thê và việc đồng hành của những người trong các cuộc hôn nhân đa thê đến với đức tin.
17. Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số
Đúc kết ý kiến
a) Văn hóa kỹ thuật số đại diện cho một sự thay đổi cơ bản trong cách chúng ta nhận thức về thực tại và do đó liên quan đến chính chúng ta, với nhau, môi trường xung quanh và thậm chí với Thiên Chúa. Môi trường kỹ thuật số thay đổi quá trình học tập cũng như nhận thức của chúng ta về thời gian, không gian, cơ thể chúng ta, mối quan hệ giữa các cá nhân và thậm chí là phần lớn cách suy nghĩ của chúng ta. Sự phân biệt giữa thực và ảo không mô tả đầy đủ thực tế và trải nghiệm của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, còn được gọi là "người bản địa kỹ thuật số".
b) Do đó, văn hóa kỹ thuật số không phải là một lĩnh vực truyền giáo riêng biệt mà là một chiều kích quan trọng của sự làm chứng của Giáo Hội trong văn hóa đương đại. Đây là lý do tại sao nó có ý nghĩa đặc biệt trong một Giáo Hội hiệp hành.
c) Các nhà truyền giáo luôn đi với Chúa Kitô đến những vùng ngoại vi mới, trong khi Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đi trước họ. Việc của chúng ta là tiếp cận văn hóa ngày nay trong tất cả các không gian nơi con người tìm kiếm ý nghĩa và tình yêu, bao gồm cả những không gian họ bước vào thông qua điện thoại di động và máy tính bảng của họ.
d) Chúng ta không thể rao giảng Tin mừng trong nền văn hóa kỹ thuật số nếu không hiểu nó trước. Giới trẻ, và trong số họ, các chủng sinh, linh mục trẻ, và những người nam nữ trẻ tận hiến, những người thường có kinh nghiệm sâu sắc và trực tiếp về nó, là những người thích hợp nhất để thực hiện sứ mạng của Giáo Hội trong môi trường kỹ thuật số, cũng như đồng hành với phần còn lại của cộng đồng, bao gồm cả các mục tử, trong việc làm quen với các động lực của nó.
e) Trong tiến trình hiệp hành, các sáng kiến về "Thượng Hội đồng kỹ thuật số" ("Dự án Giáo Hội lắng nghe bạn") cho thấy tiềm năng của môi trường kỹ thuật số được tiếp cận trong truyền giáo, sự sáng tạo và quảng đại của những người tham gia vào nó, và tầm quan trọng của việc cung cấp cho họ sự đào tạo, đồng hành và cơ hội thảo luận và hợp tác giữa bạn bè.
Các vấn đề cần xem xét
f) Internet ngày càng hiện diện trong cuộc sống của trẻ em và gia đình. Mặc dù nó có tiềm năng lớn để cải thiện cuộc sống của mọi người, nhưng nó cũng có thể gây hại và tổn thương, chẳng hạn như qua đe dọa, thông tin sai lệch, bóc lột tình dục và nghiện ngập. Có một nhu cầu cấp thiết xem xét làm thế nào cộng đồng Kitô hữu có thể hỗ trợ các gia đình trong việc đảm bảo rằng không gian trực tuyến không chỉ an toàn mà còn mang lại sự sống về mặt thiêng liêng.
g) Có nhiều sáng kiến trực tuyến có giá trị và hữu ích liên quan đến Giáo Hội cung cấp giáo lý và đào tạo đức tin tuyệt vời. Thật không may, cũng có những trang web nơi các vấn đề liên quan đến đức tin được đề cập một cách hời hợt, phân cực và thậm chí đầy thù hận. Là một Giáo Hội và là những người truyền giáo kỹ thuật số cá nhân, chúng ta có bổn phận phải tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể bảo đảm rằng sự hiện diện trực tuyến của chúng ta tạo thành một kinh nghiệm mang lại sự phát triển về mặt tâm linh, đức tin cho những người mà chúng ta giao tiếp.
h) Các sáng kiến tông đồ trực tuyến có phạm vi và quy mô vượt ra ngoài ranh giới lãnh thổ được hiểu theo truyền thống. Điều này đặt ra những câu hỏi quan trọng về cách chúng có thể được quy định và cơ quan Giáo Hội nào phải chịu trách nhiệm giám sát.
i) Chúng ta cũng phải xem xét những tác động của vùng ngoại vi truyền giáo kỹ thuật số mới đối với việc đổi mới các cấu trúc giáo xứ và giáo phận hiện có. Trong một thế giới ngày càng kỹ thuật số, làm thế nào để chúng ta tránh bị mắc kẹt trong một tư duy chỉ tìm cách bảo tồn những gì chúng ta đang làm và thay vào đó giải phóng năng lượng mới cho các hình thức truyền giáo mới?
j) Đại dịch COVID-19 đã kích thích một loạt các sáng kiến mục vụ trực tuyến sáng tạo giúp giảm tác động của trải nghiệm cô lập và cô đơn, đặc biệt là đối với các thành viên cộng đồng cao tuổi và dễ bị tổn thương. Các cơ sở giáo dục Công giáo cũng sử dụng các nền tảng trực tuyến một cách hiệu quả để tiếp tục đào tạo và dạy giáo lý trong thời gian phong tỏa. Chúng ta cần đánh giá những gì kinh nghiệm này đã dạy chúng ta và những lợi ích lâu dài có thể là gì đối với sứ mạng của Giáo Hội trong môi trường kỹ thuật số.
k) Trong khi tìm kiếm vẻ đẹp, nhiều người trẻ đã từ bỏ không gian vật lý của Giáo Hội mà chúng ta tiếp tục cố gắng mời gọi họ, thay vào đó ưu tiên các không gian trực tuyến. Điều này có hệ quả đối với cách chúng ta cố gắng thu hút họ và tìm cách cung cấp cho họ việc đào tạo và giáo lý. Đây là điều cần xem xét từ quan điểm mục vụ.
Các đề xuất
l) Chúng ta cần tạo điều kiện để nhận diện, đào tạo và đồng hành với những người đã làm việc với tư cách là những người truyền giáo kỹ thuật số, đồng thời tạo điều kiện cho việc kết nối mang lưới giữa họ.
m) Điều quan trọng là phải tạo ra các mạng lưới cộng tác của những người có ảnh hưởng bao gồm những người thuộc các tôn giáo khác hoặc thậm chí không theo một tôn giáo nào nhưng muốn hợp tác vì các mục đích chung nhằm thúc đẩy nhân phẩm, công lý và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta là điều quan trọng.
18. Cơ cấu tham gia
Đúc kết ý kiến
a) Là thành viên của Dân trung thành của Thiên Chúa, tất cả những người đã được rửa tội đều đồng trách nhiệm truyền giáo, mỗi người tùy theo ơn gọi, khả năng và kinh nghiệm của mình. Do đó, tất cả đều góp phần vào việc hình dung về tương lai và phân định các bước để canh tân các cộng đồng Kitô hữu và toàn thể Giáo Hội. Bằng cách này, Giáo Hội cảm nghiệm được "niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng". Mục đích của tính hiệp hành, trong cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan mà nó hình thành, là vì sứ mạng truyền giáo. Đồng trách nhiệm là vì truyền giáo: điều này chứng thực rằng chúng ta thực sự quy tụ nhân danh Chúa Giêsu, nhờ đó giải phóng các cơ cấu của Giáo Hội ra khỏi những giới hạn quan liêu và logic quyền lực kiểu thế gian, và làm cho việc quy tụ sinh hoa trái.
b) Dưới ánh sáng của giáo huấn gần đây của Giáo Hội (đặc biệt là Lumen gentium và Evangelii gaudium), sự đồng trách nhiệm này của tất cả mọi người trong sứ mạng phải là tiêu chuẩn làm nền tảng cho việc cấu trúc các cộng đồng Kitô hữu và toàn thể Giáo Hội địa phương với tất cả các công việc phục vụ , trong tất cả các tổ chức, trong mỗi cơ quan mục vụ (x. 1Cr 12,4-31). Sự công nhận đúng đắn về vai trò của giáo dân đối với sứ mạng truyền giáo trên thế giới không thể trở thành cái cớ để giao trọn vẹn trách nhiệm chăm sóc cộng đồng Kitô giáo cho riêng các giám mục và linh mục.
c) Thẩm quyền tối thượng là thẩm quyền của Lời Chúa, là thẩm quyền phải truyền cảm hứng cho mọi cuộc họp của các cơ quan tham gia, mọi cuộc tham vấn và mọi quá trình ra quyết định. Để điều này xảy ra, điều cần thiết là, ở mọi cấp độ, cộng đoàn rút ra ý nghĩa và sức mạnh từ Bí tích Thánh Thể và diễn ra dưới ánh sáng của Lời được lắng nghe và chia sẻ trong lời cầu nguyện.
d) Thành phần của các hội đồng để phân định và ra quyết định cho một cộng đồng truyền giáo cần có sự tham gia của những người mang trong mình tinh thần truyền giáo. Những người này không nhất thiết phải thường xuyên hiện diện ở nhà thờ, mà được phân biệt bởi lối sống làm chứng cho Phúc Âm trong cuộc sống hằng ngày. Dân Chúa càng có khả năng truyền giáo hơn khi đưa tiếng nói của những người đang sống sứ mạng bằng cách hiện diện tích cực giữa thế giới và vùng ngoại vi vào trong các cơ quan ra quyết định của mình.
Các vấn đề cần xem xét
e) Dựa trên những điều chúng ta đã chia sẻ, điều quan trọng là phải đặt câu hỏi làm thế nào chúng ta có thể thúc đẩy sự tham gia vào các hội đồng khác nhau khi nhiều người cảm thấy họ không đủ khả năng đảm nhận nhiệm vụ. Tính hiệp hành phát triển khi mỗi thành viên tham gia vào các tiến trình và ra quyết định cho sứ mạng của Giáo Hội. Theo nghĩa này, chúng ta được khích lệ bởi nhiều cộng đồng Kitô hữu nhỏ trong các Giáo Hội non trẻ, những người sống gần gũi hàng ngày, xung quanh Lời Chúa và Thánh Thể.
f) Trong Amoris Laetitia, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy thác cho Giáo Hội thực hiện các thay đổi cấu trúc của các cơ quan tham gia, nhiệm vụ này không thể bị trì hoãn thêm nữa. Sự tham gia của những người nam nữ đã được rửa tội sống trong những hoàn cảnh phức tạp của mối tương quan yêu thương "có thể được diễn tả trong các công việc mục vụ khác nhau của Giáo Hội, điều này nhất thiết đòi hỏi phải biện phân những hình thức loại trừ nào hiện đang được thực hiện trong khuôn khổ phụng vụ, mục vụ, giáo dục và tổ chức có thể được vượt qua" (299). Sự biện phân này cũng liên quan đến việc loại trừ họ khỏi các cơ quan tham gia cộng đồng giáo xứ và giáo phận như đã xảy ra trong một số Giáo Hội địa phương.
g) Từ viễn cảnh về tính độc đáo của sự hiệp thông Giáo Hội: làm thế nào chúng ta có thể đan xen các khía cạnh tư vấn và thảo luận của tính hiệp hành? Với sự đa dạng của các ân sủng đặc sủng và thừa tác viên của Dân Chúa, làm thế nào để chúng ta kết hợp các nhiệm vụ cố vấn, biện phân và quyết định trong các cơ quan tham gia khác nhau.
Các đề xuất
h) Dựa trên sự hiểu biết Dân Chúa như là chủ thể tích cực của sứ mạng truyền giáo, chúng tôi đề nghị lập pháp cho bản chất bắt buộc của các Hội đồng Mục vụ trong các cộng đồng Kitô giáo và các Giáo Hội địa phương. Cũng mong muốn củng cố các cơ quan tham gia, với sự hiện diện thích hợp của giáo dân, nhận ra vai trò của họ trong việc biện phân các quyết định dựa trên bí tích Rửa tội của mình.
i) Các cơ quan có sự tham gia đại diện cho cấp độ đầu tiên để trải nghiệm sự minh bạch giải trình của những người nắm trách nhiệm. Trong khi chúng tôi hoan nghênh nhiệt liệt và ủng hộ cam kết của họ, đến lượt họ, họ được mời thực hành văn hóa trách nhiệm giải trình minh bạch đối với cộng đồng mà họ là một biểu hiện.
19. Các nhóm Giáo Hội trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội
Đúc kết ý kiến
a) Chúa Thánh Thần ban phát dồi dào các ân sủng của Người vì lợi ích chung, và vì thế chúng ta xác tín rằng mỗi Giáo Hội, trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, có nhiều điều để cống hiến. Khi chúng ta xem Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô, chúng ta hiểu dễ dàng hơn rằng các chi thể khác nhau phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ cùng một sự sống: "nếu một chi thể chịu đau đớn, thì mọi chi thể cùng chịu đau khổ với nó; và nếu một chi thể được tôn vinh, tất cả các chi thể đều cùng mừng vui" (1 Cr 12,26). Do đó, chúng tôi muốn phát triển các thái độ thiêng liêng phát sinh từ quan điểm này: khiêm tốn và quảng đại, tôn trọng và chia sẻ. Điều quan trọng là sự sẵn sàng lớn lên trong sự hiểu biết lẫn nhau và chuẩn bị các cấu trúc cần thiết để việc trao đổi của cải thiêng liêng, vai trò môn đệ truyền giáo và của cải vật chất có thể trở thành hiện thực.
b) Câu hỏi về các nhóm của các Giáo Hội địa phương đã được chứng minh là nền tảng cho việc thực thi đầy đủ tính hiệp hành trong Giáo Hội. Để trả lời câu hỏi làm thế nào để cơ cấu tổ chức mang tính hiệp hành và tính hợp đoàn liên quan đến các nhóm của các Giáo Hội địa phương, Thượng Hội đồng đã đồng ý về tầm quan trọng của việc phân định Giáo Hội được thực hiện bởi các Hội đồng Giám mục và Hội đồng Châu Lục để tiến hành đúng giai đoạn đầu của tiến trình hiệp hành.
c) Tiến trình hiệp hành đã cho thấy các cơ quan do Bộ Giáo luật và Bộ Giáo luật cho các Giáo Hội Đông phương quy định thực hiện chức năng của chúng một cách hiệu quả hơn khi các cơ quan này được hiểu từ các Giáo Hội địa phương. Thực tế là Giáo Hội toàn thể (Ecclesia tota) là một sự hiệp thông giữa các Giáo Hội đòi hỏi mỗi giám mục một cách trực tiếp và ràng buộc hơn để thực hiện bổn phận chăm sóc của mình đối với tất cả các Giáo Hội (sollicitudo omnium Ecclesiarum) như một khía cạnh cấu thành thừa tác vụ của mình với tư cách là mục tử của một Giáo Hội địa phương.
d) Các Hội đồng Giám mục đã đóng một vai trò quyết định trong giai đoạn đầu của tiến trình hiệp hành. Quá trình này đưa ra nhu cầu về tính hiệp hành và tính hợp đoàn ở cấp lục địa. Các cơ quan hoạt động ở các cấp độ này góp phần vào việc thực thi tính hiệp hành, tôn trọng các thực tại địa phương và các tiến trình hội nhập văn hóa. Hội nghị bày tỏ tin tưởng rằng bằng những phương tiện này, nguy cơ đồng nhất và tập trung hóa trong việc quản trị Giáo Hội sẽ được khắc phục.
Các vấn đề cần xem xét
e) Trước khi tạo ra các cấu trúc Giáo Hội mới, chúng ta cần củng cố và hồi sinh những cấu trúc hiện có. Cũng cần phải nghiên cứu dưới góc độ Giáo Hội và giáo luật về ý nghĩa của cải cách liên quan đến các nhóm Giáo Hội, để họ có thể đảm nhận một đặc tính hiệp hành đầy đủ hơn.
f) Xem xét các thực hành hiệp hành của Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất, chúng tôi đề nghị nghiên cứu cách thức khôi phục các tổ chức cổ xưa trong luật giáo luật hiện hành và hài hòa chúng với các tổ chức mới được thành lập, chẳng hạn như các Hội đồng Giám mục.
g) Bản chất giáo lý và pháp lý của các Hội đồng Giám mục cần được nghiên cứu thêm, thừa nhận khả năng hành động cùng nhau, kể cả các vấn đề về giáo lý phát sinh tại địa phương, do đó mở lại suy tư về Tự sắc Motu Proprio Apostolos suos.
h) Các khoản giáo luật đề cập đến các công đồng địa phương (khoáng đại và giáo tỉnh) có thể được sửa đổi để gia tăng sự tham gia của Dân Chúa, noi theo ví dụ miễn trừ được cho phép trong Công đồng Khoáng đại gần đây của Úc?
Đề nghị
i) Trong số các cơ cấu đã được quy định trong Giáo luật, giáo tỉnh hoặc tổng giáo phận phải được phục hồi và củng cố như một nơi hiệp nhất cho các Giáo Hội địa phương trong lãnh thổ của họ.
j) Các cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện tính hiệp hành ở cấp khu vực, quốc gia và lục địa phù hợp với những hiểu biết sâu sắc đã nảy sinh liên quan đến các nhóm Giáo Hội.
k) Khi cần thiết, chúng tôi đề nghị thành lập giáo tỉnh quốc tế để mang lại lợi ích cho các giám mục không thuộc bất kỳ Hội đồng Giám mục nào và thúc đẩy sự hiệp thông giữa các Giáo Hội xuyên biên giới quốc gia.
l) Ở các nước theo Nghi lễ Latinh cũng có hệ thống Giáo Hội Công giáo Đông phương, chúng tôi đề nghị bao gồm các Giám mục Đông phương trong các Hội đồng Giám mục quốc gia, đồng thời vẫn giữ nguyên tính tự trị của họ được thiết lập bởi Bộ Giáo luật riêng.
m) Cần xây dựng một cấu trúc giáo luật cho các Hội đồng Châu Lục tôn trọng tính đặc thù của mỗi châu lục, đồng thời tính đến sự tham gia của các Hội đồng Giám mục và các Giáo Hội, với đại biểu của riêng họ thể hiện sự đa dạng của Dân Chúa.
20. Thượng Hội đồng Giám mục và Đại hội Giáo Hội
Đúc kết ý kiến
a) Ngay cả khi trải nghiệm "cùng nhau bước đi" đôi lúc mệt mỏi, Đại hội vẫn cảm nhận được niềm vui Tin Mừng khi là Dân Chúa. Những kinh nghiệm mới liên quan đến giai đoạn này của hành trình hiệp hành nói chung được hoan nghênh. Những điều rõ ràng nhất bao gồm sự thay đổi việc cử hành Thượng Hội đồng từ một sự kiện sang một tiến trình (như được chỉ ra bởi Tông hiến Episcopalis communio); sự hiện diện của các thành viên khác, nam cũng như nữ, cùng với các giám mục; sự hiện diện tích cực của các đại biểu huynh đệ; khóa tĩnh tâm để chuẩn bị cho Đại hội; cử hành Thánh Thể tại nhà thờ Thánh Phêrô; bầu không khí cầu nguyện và phương pháp Đối Thoại trong Chúa Thánh THần; và chính sự bố trí của Đại hội trong Đại sảnh Phaolô VI.
b) Hội đồng Giám mục, với đặc tính Giám mục nổi bật của mình, đã thể hiện rõ ràng trong dịp này mối liên hệ nội tại giữa chiều kích hiệp hành của đời sống Giáo Hội (sự tham gia của tất cả mọi người), chiều kích hợp đoàn (sự chăm sóc của các giám mục cho toàn thể Giáo Hội) và chiều kích đứng đầu (sự phục vụ của Giám mục Rôma, người đảm bảo sự hiệp thông).
c) Tiến trình hiệp hành đã và đang là thời gian ân sủng khuyến khích chúng ta. Thiên Chúa đang ban cho chúng ta cơ hội để trải nghiệm một nền văn hóa hiệp hành mới, có khả năng hướng dẫn đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng tôi nhắc lại rằng chỉ tạo ra các cơ cấu đồng trách nhiệm mà hiếu sự hoán cải cá nhân theo hướng hiệp hành truyền giáo là chưa đủ. Các tiến trình hiệp hành không làm giảm bớt trách nhiệm cá nhân của những người được kêu gọi tham gia vào nó ở mọi cấp độ của Giáo Hội nhờ thừa tác vụ và đặc sủng riêng của họ, nhưng thực sự kêu gọi họ cố gắng hơn nữa.
Các vấn đề cần xem xét
d) Sự hiện diện của các thành viên khác ngoài các giám mục với tư cách là nhân chứng cho hành trình hiệp hành đã được đánh giá cao. Tuy nhiên, vẫn còn bỏ ngỏ câu hỏi về ảnh hưởng của sự hiện diện của họ với tư cách là thành viên đầy đủ đối với đặc tính giám mục của Hội đồng. Một số người nhìn thấy nguy cơ là nhiệm vụ cụ thể của các giám mục sẽ không được hiểu đúng đắn. Các tiêu chuẩn mà theo đó các thành viên không phải là giám mục được kêu gọi trở thành một phần của Hội đồng cũng sẽ cần phải được làm rõ.
e) Các kinh nghiệm như Đại hội Giáo Hội Mỹ Latinh và Caribe đầu tiên vào tháng 11 năm 2021, các Tổ chức của Dân Chúa ở Brazil và Hội nghị khoáng đại Úc đã được báo cáo. Vẫn còn phải xác định và đào sâu cách hội nhập tính hiệp hành và tính hợp đoàn trong tương lai, phân biệt (không có sự tách biệt quá mức) sự đóng góp của tất cả các thành viên của Dân Chúa vào việc xây dựng các quyết định và nhiệm vụ cụ thể của các giám mục. Việc trình bày tính hiệp hành, tính hợp đoàn và tính thủ lĩnh không nên được giải thích dưới dạng tĩnh hoặc tuyến tính mà theo một vòng tròn động, trong một đồng trách nhiệm có sự khác biệt.
f) Ở cấp độ khu vực, có thể nghĩ đến các bước kế tiếp (một Đại hội Giáo tỉnh theo sau bởi một Đại hội Hội đồng giám mục), nhưng việc làm rõ cách đề xuất này cho toàn thể Giáo Hội Công giáo được coi là thích hợp.. Một số người tin rằng công thức được thông qua trong Đại hội đồng này đáp ứng nhu cầu này; những người khác đề nghị rằng một Hội đồng Giám mục tuân theo một Hội đồng Giáo Hội để kết thúc việc phân định. Tuy nhiên, những người khác thích dành vai trò của các thành viên của Hội đồng Thượng Hội đồng cho các Giám mục.
g) Sự đóng góp cho công việc của Đại hội đồng và các tiến trình của Giáo Hội hiệp hành, được thực hiện bởi các chuyên gia từ các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là các nhà thần học và giáo luật, cũng có đấng được lưu tâm.
h) Cũng cần phải suy tư về sự tương tác giữa tiến trình Thượng Hội đồng và truyền thông Internet và truyền thông.
Các đề nghị
i) Các tiến trình hiệp hành ở tất cả các cấp của Giáo Hội cần được đánh giá.
j) Các kết quả của Phiên họp thứ nhất của Đại hội đồng thường kỳ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục cần được đánh giá.





 
TIẾP TỤC CUỘC HÀNH TRÌNH
 
“Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?” (Mc 4,30)
Lời Chúa được ưu tiên hơn những lời của Giáo Hội. Những lời của các môn đệ, ngay cả những lời của Thượng Hội đồng, chỉ là tiếng vang vọng lại những gì chính Thiên Chúa đã phán dạy.
Chúa Giêsu đã chọn nói bằng dụ ngôn để loan báo Triều đại Nước Thiên Chúa. Ngài tìm thấy những hình ảnh để nói về mầu nhiệm của Thiên Chúa trong những kinh nghiệm bình thường của cuộc sống con người: thế giới tự nhiên, nơi làm việc, các yếu tố thường nhật. Bằng cách này, Ngài cho chúng ta biết rằng Triều Đại Nước Thiên Chúa vượt trên chúng ta nhưng không xa cách chúng ta. Hoặc chúng ta nhìn thấy Triều đại Nước Thiên Chúa trong những sự việc của thế gian này, hoặc chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy được.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy số phận của chính mình được thể hiện trong một hạt giống rơi xuống đất, một cái gì đó không giá trị hay ý nghĩa, lẽ ra đã phải hư hoại, nhưng lại mang sức mạnh sự sống, một sức mạnh không thể ngăn cản, không thể đoán trước, mang tính Vượt Qua. Đây là sức mạnh mang lại sự sống; trở thành bánh nuôi sống nhiều người; bánh được định sẵn để trở thành Thánh Thể.
Ngày nay, trong một nền văn hóa nơi con người đấu tranh chống lại nhau để thống trị và trở nên cuồng loạn bởi những gì hữu hình, Giáo Hội được mời gọi làm vang những lời của Chúa Giêsu, đem lời Ngài sống lại trong tất cả sức mạnh tiềm tàng.
"Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?” Câu hỏi của Chúa Giêsu soi sáng công việc đang chờ phía trước chúng ta. Đó không phải là vấn đề phân tán bản thân trên nhiều mặt trận, giảm mọi thứ thành logic của hiệu quả và thủ tục. Đúng hơn, đó là vấn đề nắm bắt, trong vô vàn lời nói và đề xuất của Báo cáo này, những gì xuất hiện như một hạt giống nhỏ bé, nhưng mang trong mình tương lai, và hình dung làm thế nào để mang nó đến mảnh đất sẽ cho phép nó phát triển và trưởng thành vì lợi ích của nhiều người." Làm sao điều đó có thể xảy ra?", Đức Maria tự hỏi mình ở Nazareth (Lc 1,34) sau khi lắng nghe Lời Chúa. Chỉ có một câu trả lời: hãy ở trong Thần Khí và để cho mình được bao bọc bởi quyền năng của Người.
Khi chúng ta hướng tới thời gian từ nay đến Phiên họp thứ hai, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì cuộc hành trình cho đến nay và vì những hồng ân mà Ngài đã chúc phúc. Chúng ta phó thác giai đoạn tiếp theo cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, dấu chỉ của niềm hy vọng và an ủi chắc chắn cho Dân Trung thành của Thiên Chúa khi họ tiếp tục cuộc hành trình của họ, và cho các Thánh Tông Đồ Simon và Giuđa, những người mà chúng ta cử hành Lễ hôm nay. Tất cả chúng ta đều được mòi đón nhận hạt giống nhỏ bé mà Báo cáo Tổng hợp này đại diện.
Adsumus Sancte Spiritus!
Rôma, ngày 28 tháng 10 năm 2023,
Lễ các Thánh Tông đồ Simon và Giuđa

[1] “Synod” (Thượng Hội đồng) có nguồn gốc từ Hy ngữ: “syn” [cùng nhau] và “hodos” [con đường], có nghĩa là “cùng nhau đi trên đường.” Từ “synodos,” trong các văn bản tiếng Việt gần đây, được dịch là “hiệp hành” – “đi trên cùng một con đường.” Tuy nhiên, theo một số nhà chuyên môn về Hán ngữ, từ “synodos” nên được dịch là “đồng đạo giai hành [ 同 道 偕 行 ]”. “Đồng đạo” [ 同 道 ]: “cùng chung một đường;” “giai hành” [ 偕 行 ]: “cùng đi.” “Đồng đạo giai hành” [ 同 道 偕 行]: “cùng đi chung một con đường.” Bản dịch này, người biên tập vẫn sử dụng từ “hiệp hành” theo “thói quen” hiện có.

Tác giả: Duc Trung Vu, CSsR chuyển ngữ

TIN BÀI KHÁC


***+***
xkta
lpv
gkpv
tvcv
***+***
ra khoi
lnth
LIÊN KẾT

 

 

 

11.jpg 8.jpg 9.jpg 10.jpg 13.jpg
PAGE FACEBOOK
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập264
  • Máy chủ tìm kiếm27
  • Khách viếng thăm237
  • Hôm nay35,330
  • Tháng hiện tại895,691
  • Tổng lượt truy cập78,899,142
Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây