Di dân, những nhà Truyền giáo lưu động
Thứ tư - 18/06/2025 04:08
388
Thời gian gần đây, thế giới đang xôn xao vụ việc tân Tổng thống Mỹ Donald Trump ban Sắc lệnh trục xuất hàng ngàn người nhập cư, hay di dân bất hợp pháp khỏi nước Mỹ, trong đó có cả những di dân Việt Nam. Đây quả thật là một sự kiện gây rúng động thế giới và gây nhiều luồng dư luận trái chiều. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không bàn luận về vấn đề phức tạp này, nhưng thiết tưởng đây là cơ hội để chúng ta, những người Ki-tô hữu nhìn ra thế giới và nhìn vào thực trạng di dân trên mảnh đất hình chứ S thân yêu, cách riêng người di dân Công giáo Việt Nam. Quả vậy, là một nhân vị, mỗi con người đều có quyền căn bản là được sống tại chính quê hương mình. Một cách lý tưởng, nên tránh những cuộc di cư không cần thiết. Thế nhưng, vì nhiều lý do khác nhau, nhiều người bị buộc phải rời bỏ quê hương để tìm một nơi khác, một quốc gia khác với hy vọng có một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn. Với Giáo hội, việc di cư ấy cũng là một quyền lợi chính đáng. Theo đó, cùng với những cơ hội và thời cơ mở ra cho bao kiếp người đang phải tha phương cầu thực, thì hiện tượng di dân cũng phải đối diện với nhiều thách đố, không chỉ về kinh tế, nhưng còn về xã hội, nhân phẩm… và nhất là đức tin của mình. Thế nhưng, trong niềm tin và hy vọng, cách riêng trong sứ mạng truyền giáo, chúng ta không phủ nhận di dân luôn là một thực trạng đáng lưu tâm, một thực tại đa phức, nhưng đây cũng là một thực tế mà Giáo hội có thể gieo niềm hy vọng, nhất là trong việc loan báo Tin Mừng.
Một thực trạng đáng lưu tâm
Di dân không chỉ là một hiện tượng thuộc về xã hội, nhưng còn là một thực trạng mà Giáo hội lưu tâm và có nhiều thao thức. Cũng vậy, di dân không chỉ còn là một vấn đề của một quốc gia hay vùng lãnh thổ, nhưng là vấn đề toàn cầu. Không những thế,“hiện tượng di dân, hơn bất cứ thời nào trước đây, sẽ đóng một vai trò then chốt trong tương lai của thế giới chúng ta”. Thật thế, hiện tượng toàn cầu hóa đã dẫn đến tình trạng di dân trên toàn thế giới vì nhiều mục đích – kinh tế, chính trị, tôn giáo và sẽ còn đang và tiếp tục diễn ra cách phức tạp trong tương lai. Trong chiều hướng đó, Việt Nam đang nằm trong nhóm nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp, nên Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này. Thực tế cho thấy, hằng ngày, hàng lớp người hoặc tự nguyện, hoặc bắt buộc phải di cư và chấp nhận cảnh đời di dân trên các thành phố hoặc nước ngoài, mà trong số đó có không ít người Công giáo. Theo đó, tình trạng di dân có những tác động không nhỏ tới cơ cấu dân số, kinh tế, nếp nghĩ, văn hóa, xã hội, tôn giáo và đời sống đức tin không chỉ những người di dân, mà còn cả với những người còn sót lại quê nhà...
Đứng trước thực trạng đó, Giáo hội, cách riêng Giáo hội Việt Nam không thể làm ngơ, bởi trong những dòng người ấy, cũng có biết bao con cái của Giáo hội đã, đang di cư và trở thành di dân khắp nơi. Trái lại, Giáo hội luôn ưu tư về vấn đề này và không ngừng hành động, đấu tranh để tìm ra giải pháp hiệu quả nhất, bởi vì Giáo hội đặc biệt quan ngại cho những người phải chạy thoát khỏi chiến tranh, bạo lực, các hành vi đàn áp chính trị hay tôn giáo... Cách cụ thể, Giáo hội qua các Đức Giáo hoàng, các Thánh Bộ và các vị mục tử, không ngừng kêu gọi các quốc gia, các tổ chức phải có những chính sách nâng đỡ di dân bất phân biệt sắc tộc, tôn giáo. Đồng thời, chính Giáo hội cũng có những hành động thiết yếu bằng những văn kiện và những hành động cụ thể để nâng đỡ và đồng hành với những con người ấy, giúp họ vẫn có thể sống giá trị Tin Mừng và thực hành niềm tin của mình mọi lúc mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh...
Cũng trong chiều hướng đó, Giáo hội không chỉ nỗ lực tạo điều kiện, hỗ trợ để những người di dân không sống đức tin của mình một cách sống động, nhưng còn mời gọi mỗi di dân trở thành nhà truyền giáo linh hoạt trong việc loan báo Tin Mừng tại nơi họ sinh sống, học tập hay làm việc...
Một thực tại đa phức
Di dân đã và đang trở thành một thực tại đa phức. Đa phức bởi tính hai mặt của thực trạng này. Bởi vì bên cạnh những cơ hội được mở ra cho nhiều người có cơ hội thay phận, đổi đời, thì cũng còn đó nhiều vấn nạn, thách đố, nguy hiểm mà người di dân phải đối diện, thậm chí trở thành nạn nhân của những thực trạng đau lòng mà hằng ngày vẫn xảy ra đâu đó khắp nơi…
Quả vậy, khi chấp nhận di cư, người di dân phải rời bỏ quê hương để đến một vùng đất mới, một đất nước mới, nơi có vô số khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, môi trường và cả tôn giáo. Chính vì thế, vô số vấn nạn và khó khăn sẽ ập đến, nhất là khi những người di dân phải sống, học tập hay làm việc ở những nơi không có nhà thờ, hoặc không có người Công giáo… Khi ấy, việc tuyên xưng, giữ và sống niềm tin trở thành một thách đố lớn, nhất là với những người vốn có nền tảng đức tin không sâu sắc. Thực tế cho thấy, có nhiều bạn trẻ di dân cho rằng đạo tại tâm, nên không còn biết đặt Thiên Chúa lên hàng đầu, đặt nền Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình… Khi nghĩ như vậy, đương nhiên chúng ta hạn chế cuộc sống vào cái chúng ta có thể làm và tạo ra, và có thể chứng minh được mà thôi. Như vậy, vấn đề Thiên Chúa chẳng cần đặt ra nữa…
Cùng với đó, nhiều di dân phải rời xa “cái nôi” nuôi dưỡng, gìn giữ đức tin bao đời. Họ cũng không còn được thường xuyên tắm gội trong bầu khí đức tin truyền thống nơi xóm đạo, nơi giáo xứ giáo họ với những nét đẹp và truyền thống trong việc cử hành Phụng vụ và thực hành đạo đức bình dân mang tính đặc trưng, vốn đã ăn vào máu huyết và trở thành nguồn sống giúp đức tin của họ được gieo trồng, nảy mầm và phát triển. Hệ quả là, vẫn có nhiều anh chị em hiện nay, dù không xa rời đức tin, nhưng e dè khi sống đức tin hoặc biểu tỏ đức tin một cách không sâu sắc. Chẳng hạn, vẫn có không ít người di dân Công giáo sống thiếu bác ái, không công bằng, gian dối, buông thả, coi thường giáo huấn Hội Thánh, đây không chỉ là vấn đề của nhóm nhỏ nhưng trở thành vấn đề đáng lo ngại. Chúng ta phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức về tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Hội Thánh ngày nay.
Không những thế, trong một thế giới đã và đang chuyển mình từ thời “hiện đại” sang “hậu hiện đại” từ những điểm quy chiếu “cố định, an toàn, hợp lý”, nhất là về nhân cách, luân lý và đức tin, sang “sự đa dạng, không chắc chắn”, hàm chứa một phần của chủ nghĩa tương đối, nhất là “tương đối hóa chân lý”, người di dân sẽ có thể bị hoang mang, nhất là về chân lý và luân lý theo tinh thần Ki-tô giáo… Cụ thể, người di dân Việt Nam đa phần là giới trẻ của thời đại kĩ thuật số và thời đại công nghệ 4.0, chịu ảnh hưởng nhiều của “luân lý và lý luận” trên mạng lưới và xã hội đời hơn là đạo đức của đức tin truyền thống… nên di dân dễ nghe “đời” hơn nghe “đạo”, dễ tìm theo “chiều dầy của lương tháng” hơn “chiều dài của lương tâm”, dễ chấp nhận dùng những phương pháp xấy để có thể đạt được mục đích tốt và biện minh cho hành động của mình.
Cũng trong chiều hướng đó, thực tại di dân cũng tác động tới những người còn ở lại, mà trong số này đa số là người già, phụ nữ và trẻ em. Hệ quả là“tình trạng ly tán ảnh hưởng đến các cộng đồng ở quê nhà, vì họ bị mất đi các thành viên rắn rỏi và tháo vát nhất, và tình trạng này cũng ảnh hưởng đến các gia đình, đặc biệt là khi cha hoặc mẹ, hay cả hai, bỏ con cái ở lại quê nhà để di cư”. Và còn nhiều hệ quả khác nữa…
Một thực tế hy vọng
Dẫu vẫn biết hiện tượng di dân đang ngày càng diễn ra trên diện rộng, cách riêng tại Việt Nam, kéo theo nhiều hệ lụy và thách đố phức tạp. Nhưng, là những người hành hương hy vọng, hẳn nhiên, Giáo hội không bao giờ thất vọng. Trái lại, Giáo hội luôn ưu tư, quan tâm và tiếp tục gieo hy vọng nơi chính những con người đang phải thực hiện những cuộc di cư và sống như “những người hành hương” có thể bất đắc dĩ ấy. Cách cụ thể, những cuộc di dân ồ ạt, được Công đồng Vaticanô II xem như một dấu chỉ của thời đại (x. Hiến chế Gaudium et Spes 4-6). Qua đó, Giáo hội kêu mời con cái mình không chỉ tiếp tục thi hành sứ mạng loan báo và tái Tin Mừng cho những người di dân, nhưng còn thao thức chính những di dân trở thành những nhà truyền giáo năng động có thể mang Chúa đến cho con người trong thế giới hôm nay, trong chính những môi trường, hoàn cảnh mà họ đang sống.
Theo đó, Giáo hội không ngừng nỗ lực tìm ra những giải pháp tối ưu nhất để cách nào đó hỗ trợ và giúp các cộng đoàn di dân có thể tiếp tục sống và cử hành đức tin của mình. Cách cụ thể, cùng với việt thiết lập các tổ chức, các văn phòng, các hội, quỹ để hỗ trợ di dân, thì Giáo hội cũng cổ võ và nỗ lực trong việc tạo ra môi trường thuận tiện để củng cố, tăng cường đức tin cho người di dân. Những nỗ lực ấy nhắm tới việc làm sao để anh chị em di dân có cuộc gặp gỡ thực sự với Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, bởi tin là một cuộc gặp gỡ sống động vừa cá vị vừa cộng đoàn. Điều đó được thể hiện cách cụ thể trong việc thiết lập các nhóm di dân Công giáo, hội đồng hương hay liên hiệp di dân Công giáo để người di dân giúp nhau sống đức tin tốt hơn…
Cùng với đó, Giáo hội cũng kêu mời các Giáo hội địa phương, nơi có các cộng đoàn di dân, tạo điều kiện, môi trường để thu hút, đón nhận, nâng đỡ, và coi người di dân như một thành phần của cộng đoàn. Qua đó, người di dân có thể thực hành đức tin và sống niềm tin của mình như những anh em trong đại gia đình Giáo hội. Bởi vì, những người mới đến, khác biệt về lối sống và văn hóa, có thể là một quà tặng, vì “những câu chuyện của người nhập cư luôn luôn là những câu chuyện về sự gặp gỡ giữa các cá nhân và giữa các nền văn hóa”… Cũng vậy, các linh mục, tu sĩ di dân vì học tập hay sứ vụ, cũng được kêu mời trở thành cầu nối, người đồng hành giúp người di dân sống và giữ niềm tin của mình, nhất là khi những người di dân cần có sự giúp đỡ và huấn luyện để lương tâm mỗi ngày một phát triển và trưởng thành hơn.
Cũng trong chiều hướng đó, bên cạnh việc củng cố và duy trì đời sống đức tin cho anh chị em di dân, chúng ta phải nhìn nhận rằng, trong số di dân thì cũng có rất nhiều anh em di dân Công giáo có nền tảng đức tin vững chắc đã, đang trở thành những ngọn hải đăng, trở nên muối và ánh sáng chiếu giãi Tin Mừng ngay giữa đời, dù đôi khi họ gặp phải những gian nan, thử thách. Thật vậy, nhiều anh chị em di dân có một đức tin sâu sắc, khao khát sống và thể hiện đức tin ấy mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Chính vì thế, họ hoàn toàn có thể trở thành những chứng nhân Tin Mừng năng động và hiệu quả, sẵn sàng trở thành những cộng tác viên trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội.
Như thế, chính người di dân có thể loan truyền đức tin, đức tin mà mình đã cảm thụ, lãnh nhận và tăng trưởng. Đức tin sẽ tăng trưởng khi biết sống đức tin với cảm nghiệm về tình yêu đã lãnh nhận, và biết thông truyền đức tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui cho người xung quanh, những người cùng niềm tin hoặc khác niềm tin. Theo đó, người di dân hoàn toàn có thể trở thành nhà truyền giáo và thi hành sứ mạng bản chất của mình. Cách cụ thể, các di dân có thể thực thi sứ mạng của mình trên hết và trước hết bằng chính đời sống chứng tá của mình giữa đời, nơi họ sinh sống, học tập và làm việc. Cùng với đó, người di dân có thể tận dụng mọi cơ hội, mọi phương tiện, nhất là những thành quả của khoa học công nghệ và truyền thông để nói về Chúa, cũng như làm chứng về Chúa bằng những hành động cụ thể, với một nếp sống bác ái yêu thương, sự trung thực, lòng vị tha, nhân bản Ki-tô giáo…
Cũng vậy, khi tích cực sống đức tin như những ngọn nến soi đường, người di dân cũng là những nhà truyền giáo lưu động và năng động, những người mang mùi của Chủ chiên đến cho những con chiên hay người khác. Đồng thời, khi những người bản xứ thấy những người di dân sống đạo một cách tích cực cũng làm những người cùng đức tin cảm phục và muốn làm nóng lại đức tin hay phấn khởi sống đạo, hoặc những người chưa có đức tin có thể có cảm tình với đạo, thậm chí có thể tin theo…
Để tạm kết, di dân đã và đang là một vấn đề thời đại, một thực tại không chỉ xã hội, nhưng Giáo hội đang rất lưu tâm và khắc khoải. Theo đó, việc di dân mở ra những cơ hội nhưng cũng mang tới nhiều vấn đề và những thách đố, trước là cho việc thực hành niềm tin của người di dân cũng như những người ở lại và sau là đặt ra nhiều vẫn đề mục vụ cho Giáo hội và các vị mục tử. Chính vì thế, một lối nhìn đúng đắn về hiện tượng này không chỉ giúp Giáo hội tìm ra những giải pháp hiệu quả để nâng đỡ đời sống đức tin của con cái mình, nhưng đồng thời cũng mở ra những cánh cửa, những thời cơ đầy tiềm năng để Giáo hội cổ võ và nhất là thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh chị em di dân, mà những nhà truyền giáo năng động, không ai khác chính là những di dân...
Cf. Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II, Sứ điệp gửi Hội nghị thế giới lần thứ bốn về mục vụ các người di dân và tị nạn, số 2
Cf. Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tuti về tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội, số 129
Cf. Công đồng Vaticano II, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, số 6
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 32
Cf. Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tuti về tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội, số 40
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 11
Cf. Đức Thánh cha Phan-xi-cô, Tông huấn Đức Ki-tô đang sống, số 91
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr 29-46
Cf. Đức Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thiên Chúa và trần thế, Phạm Hồng Lam dịch, NXB. Tôn giáo, tr. 24
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 165
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 255
Cf. Đức Thánh cha Phan-xi-cô, Tông huấn Đức Ki-tô đang sống, số 93
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Biên soạn, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 172-173
Cf. Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tuti về tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội, số 133
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 255
Cf. Thánh Công đồng Vaticano II, Sắc Lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội, số 2
Cf. Lm. Anthony Lê Đức SVD và Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, (Biên soạn), Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đướng hướng mục vụ, Logos (Divine Word) Publications, Inc., Manila 2020, tr. 259
Tác giả: Khiêm Nhu
Nguồn tin: Trích trong Tạp trí Ra khơi số 32