PHẦN I
Dung Nhan của Giáo hội Hiệp Hành
1. Tính hiệp hành: Kinh nghiệm và sự hiểu biết
Đúc kết các ý kiến
a) Chúng ta hoan nghênh lời mời gọi nhìn nhận chiều kích hiệp hành của Giáo Hội với một ý thức mới. Thực hành mạng tính hiệp hành đã được chứng minh trong Tân Ước và Hội Thánh sơ khai, mang những hình thức lịch sử đặc biệt trong các Giáo hội và truyền thống khác nhau. Công đồng Vatican II "cập nhật" thực hành này, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã một lần nữa khuyến khích Giáo Hội đổi mới. Thượng Hội đồng 2021-2024 là một phần của sự đổi mới này. Qua đó, Dân Thánh của Thiên Chúa đã khám phá ra rằng một cách thức hiệp hành để thinh lặng, cầu nguyện, lắng nghe và nói, bắt nguồn từ Lời Chúa và trong những cuộc gặp gỡ vui ttươi, mặc dù đôi khi cũng đau đớn, dẫn đến một nhận thức sâu sắc hơn rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em trong Đức Ki-Tô. Một thành quả vô giá của quá trình này là nâng cao nhận thức về căn tính của chúng ta là Dân trung tín của Thiên Chúa, trong đó mỗi người là người mang trong mình phẩm giá bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội, và mỗi người được kêu gọi tham gia đồng trách nhiệm một cách khác biệt đối với sứ mệnh chung của việc loan báo Tin Mừng.
b) Tiến trình này đã làm mới lại kinh nghiệm và khát vọng của chúng ta đối với Hội Thánh như là nhà và gia đình của Thiên Chúa, một Giáo hội gần gũi hơn với đời sống của con cái mình , ít quan liêu hơn và trở nên hòa đồng gắn kết hơn. Các thuật ngữ "tính hiệp hành" và "hiệp hành" đã được gắn liền với kinh nghiệm và khát vọng này, mang lại một hiểu biết hiện nay đang cần được làm sáng tỏ hơn. Đây là Giáo hội mà những người trẻ tuổi đã tuyên bố họ mong muốn vào năm 2018 nhân dịp Thượng Hội đồng Giới trẻ.
c) Cách thức mà Đại hội diễn ra trong Hội trường Phaolô VI, bao gồm việc sắp xếp chỗ ngồi cho mọi người thành các nhóm nhỏ quanh bàn tròn, đối với một số nền văn hóa đã được ví như hình ảnh của tiệc cưới trong Kinh Thánh (Khải huyền 19:9). Điều này được hiểu như là biểu tượng của một cách thức hiệp hành của Giáo hội và một hình ảnh Thánh Thể, là nguồn mạch và đỉnh cao của tính hiệp hành, với Lời Chúa ở trung tâm. Trong một Giáo hội đang sống theo tinh thần hiệp hành, các nền văn hóa, ngôn ngữ, nghi thức, cách thức suy nghĩ, và thực tế khác nhau có thể cùng nhau tham gia một cách hiệu quả vào việc chân thành tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
d) Ở giữa chúng ta đã có anh chị em đến từ các vùng đất bị đau khổ bởi chiến tranh, chịu tử đạo, bị bách hại và nạn đói dày vò. Hoàn cảnh của người dân của họ, không thể thường xuyên tham gia vào tiến trình hiệp hành, nhưng hoàn cảnh khó khăn của họ đã trở thành một phần trong chu kỳ thảo luận và cầu nguyện của chúng ta, làm sâu sắc thêm ý thức hiệp thông của chúng ta với họ và quyết tâm của chúng ta để trở thành những người kiến tạo hòa bình.
e) Đại hội đã thường xuyên nói về hy vọng, chữa lành, hòa giải và phục hồi lòng tin giữa các bên. Đây là một trong những ơn huệ mà Chúa Thánh Thần đã tuôn đổ trên Giáo hội trong tiến trình thượng hội đồng này. Cởi mở lắng nghe và đồng hành với tất cả mọi người, kể cả những người đã bị lạm dụng và tổn thương trong Giáo hội, khiến nhiều người từ lâu cảm thấy bị bỏ rơi nay được chú ý tới. Hành trình dài hướng tới hòa giải và công lý, bao gồm việc giải quyết các yếu tố cấu trúc tiếp tay cho sự lạm dụng như vậy, vẫn còn trước mắt chúng ta, và đòi hỏi những hành động sám hối cụ thể.
f) Chúng ta biết rằng "tính hiệp hành/ hiệp hành" là một thuật ngữ xa lạ với nhiều thành phần Dân Chúa, gây ra sự nhầm lẫn và lo lắng cho một số người. Trong số những lo ngại được bày tỏ là giáo huấn của Giáo hội sẽ bị thay đổi, khiến chúng ta rời xa đức tin Tông truyền của các lớp tiền nhân và, khi làm như vậy, sẽ không đáp ứng được nhu cầu của những người đói khát Thiên Chúa ngày nay. Tuy nhiên, chúng tôi tin tưởng rằng tính hiệp hành là một biểu hiện của Truyền thống năng động và sống động.
g) Không phủ nhận tầm quan trọng của nền dân chủ đại diện, Đức Giáo Hoàng Phanxicô trả lời trước mối quan tâm của một số người rằng Thượng Hội đồng có thể trở thành một cơ quan ra quyết định theo đa số, tước đi đặc tính giáo hội và thiêng liêng của nó, do đó gây nguy hiểm cho bản chất phẩm trật của Giáo hội. Rõ ràng là một số người sợ rằng họ sẽ bị buộc phải thay đổi; những người khác lo sợ rằng sẽ không có gì thay đổi cả hoặc sẽ dũng khí để tiến lên theo nhịp độ của Truyền thống sống động. Ngoài ra, sự bối rối và chống đối đôi khi có thể che giấu nỗi sợ mất quyền lực và đặc quyền đi kèm với nó. Tuy nhiên, trong tất cả các bối cảnh văn hóa, các thuật ngữ "hiệp hành" và "Tính hiệp hành" nói về một phương thức tồn tại của Giáo hội tích hợp sự hiệp thông, sứ vụ, và tham gia. Một ví dụ là Hội nghị Giáo hội Amazon (CEAMA), một hoa trái của tiến trình thượng hội đồng trong khu vực.
h) Theo nghĩa rộng nhất, tính hiệp hành có thể được hiểu là các Kitô hữu bước đi trong sự hiệp thông với Chúa Kitô hướng về Nước Trời cùng với toàn thể nhân loại. Định hướng của nó là hướng tới sứ vụ và việc thực hành của nó liên quan đến việc quy tụ trong cộng đoàn ở oọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Nó liên quan đến lắng nghe lẫn nhau, đối thoại, phân định cộng đoàn và tạo ra sự đồng thuận như một cách thể hiện diễn tả Đức Kitô hiện diện trong Chúa Thánh Thần, mỗi người đưa ra quyết định phù hợp với trách nhiệm của mình.
i) Thông qua kinh nghiệm và những cuộc gặp gỡ, chúng ta đã cùng nhau phát triển nhận thức này. Tóm lại, ngay từ những ngày đầu tiên, Đại hội đã được định hình bởi hai xác tín: thứ nhất là kinh nghiệm chúng ta đã chia sẻ trong suốt những năm qua là một trải nghiệm đích thực của Kitô giáo và nên được đón nhận đầy đủ trong sự phong phú và sâu sắc của nó; thứ hai là các thuật ngữ "hiệp hành" và "tính hiệp hành" đòi hỏi nhiều hơn làm rõ chính xác mức độ ý nghĩa của chúng trong các nền văn hóa khác nhau. Sự đồng thuận đáng kể đã xuất hiện, với sự làm sáng tỏ cần thiết, tính hiệp hành đại diện cho tương lai của Giáo hội.
Các vấn đề cần xem xét
j) Dựa trên nền tảng công việc suy tư đã được thực hiện, cần phải làm rõ ý nghĩa của tính hhiệp hành ở các cấp độ khác nhau, về mặt mục vụ, thần học và giáo luật. Điều này giúp tránh nguy cơ khái niệm nghe có vẻ quá mơ hồ hoặc chung chung hoặc xuất hiện như một mốt hoặc xu hướng chóng qua. Nó cho phép chúng ta đưa ra một sự hiểu biết rộng rãi về việc đồng hành cùng nhau với sự đào sâu và làm rõ thần học hơn nữa. Tương tự như vậy, cần phải làm rõ mối quan hệ giữa tính hiệp hành và hiệp thông và giữa tính hiệp hành và tính hiệp đoàn (collegiality).
k) Một mong muốn đã xuất hiện nhằm tăng cường sự hiểu biết và đánh giá cao sự khác biệt trong thực hành và sự hiểu biết về tính hiệp hành giữa truyền thống của Kitô giáo Đông phương và truyền thông Latinh, kể cả trong tiến trình hiệp hành đang diễn ra này, bằng cách thúc đẩy các cuộc gặp gỡ giữa hai bên.
l) Đặc biệt, nhiều cách diễn tả đời sống hiệp hành trong bối cảnh văn hóa nơi con người quen thuộc cùng nhau bước đi như một cộng đồng và nơi mà chủ nghĩa cá nhân chưa bén rễ, nên được xem xét để suy tư sâu sắc hơn. Theo cách này, thực hành hiệp hành đóng một phần quan trọng trong phản ứng mang tính ngôn sứ của Giáo hội đối với chủ nghĩa cá nhân khiến mọi người quay lưng lại với chính mình, chủ nghĩa dân túy chia rẽ, và toàn cầu hóa đồng nhất và san phẳng. Mặc dù không giải quyết được những vấn đề này, nhưng nó vẫn cung cấp một cách sống và hành động khác cho thời đại của chúng ta, tích hợp đa dạng các quan điểm. Đây là một giải pháp thay thế đầy hy vọng cần được khám phá à làm sáng tỏ thêm.
Đề nghị
m) Sự phong phú và sâu sắc của tiến trình hiệp hành cho thấy giá trị của việc mở rộng sự tham gia, và vượt qua những trở ngại để tham gia đã xuất hiện cho đến nay.
n) Cần phải tìm cách mời gọi hàng giáo sĩ (phó tế, linh mục, giám mục) tham gia tích cực hơn vào tiến trình hiệp hành trong suốt năm tới. Một Giáo hội hiệp hành không thể thiếu tiếng nói, kinh nghiệm hoặc đóng góp của họ. Chúng ta cần hiểu rõ hơn lý do tại sao một số người có
cảm thấy phản đối tiến trình hiệp hành.
o) Văn hóa hiệp hành cần phải trở nên liên thế hệ hơn, với những không gian cho người trẻ được nói lên tiếng nói của mình một cách tự do, trong gia đình, và với bạn bè và cha xứ của họ, bao gồm cả việc thông qua các kênh kỹ thuật số.
p) Đại hội đồng đề nghị thúc đẩy việc đào sâu thần học về khái niệm và thực hành tính hiệp hành trước Phiên họp thứ hai của, dựa trên di sản phong phú của nghiên cứu thần học kể từ Công đồng Vatican II và đặc biệt là các tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc tế về Thượng hội đồng về Hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội (2018) và Sensus fidei trong đời sống Giáo Hội (2014).
q) Những hệ quả giáo luật của tính hiệp hành cũng cần được làm rõ tương tự. Đối với những điều này, chúng tôi cũng đề xuất thành lập một ủy ban đặc biệt liên lục địa gồm các chuyên gia thần học và giáo luật, trước Phiên họp thứ hai của Đại hội.
r) Cuối cùng, việc sửa đổi rộng rãi hơn Bộ Giáo Luật và Bộ Giáo Luật của các Giáo hội Phương Đông Các nhà thờ được đề xuất vào thời điểm này. Do đó, cần có một nghiên cứu sơ bộ.
2. Được qui tụ và được sai đi bởi Ba Ngôi Thiên Chúa
Đúc kết các ý kiến
a) Theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, Giáo Hội là "một dân được quy tụ lại với nhau nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (LG 4). Chúa Cha, qua sứ mạng của Chúa Con và hồng ân của Chúa Thánh Thần, mời gọi chúng ta vào một động lực của sự hiệp thông và sứ mạng đưa chúng ta đi từ cái "tôi" đến cái "chúng ta" và đặt chúng ta phục vụ thế giới. Tính hiệp hành là sự diễn tả tính năng động mang chiều kích Ba Ngôi, mà qua đóThiên Chúa đến để gặp gỡ nhân loại, thành những thái độ thiêng liêng và các tiến trình của giáo hội. Để điều này xảy ra, điều cần thiết là tất cả những người đã được rửa tội phải cam kết thực hiện ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ của họ. Chỉ bằng cách này, Giáo Hội mới có thể thực sự trở thành một "cuộc đối thoại" (xem Ecclesiam suam 67) từ bên trong và với thế giới bên ngoài, đồng hành bên cạnh mọi con người theo phong cách của Chúa Giêsu.
b) Ngay từ đầu, hành trình hiệp hành của Giáo Hội hướng tới Nước Trời, một hành trình sẽ được hoàn thành trọn vẹn khi Thiên Chúa trở thành tất cả trong mọi sự. Chứng tá của tình huynh đệ giáo hội và sự tận hiến thừa sai để phục vụ những người bé mọn nhất sẽ không bao giờ sánh được với Mầu nhiệm mà họ cũng là một dấu chỉ và công cụ. Giáo Hội không suy tư về cấu trúc hiệp hành của mình để đặt mình vào trung tâm của việc loan báo, mà là để thực hiện tốt nhất, ngay cả trong sự bất toàn của nó, sự phục vụ của mình cho sự ngự đến của Nước Trời.
c) Việc canh tân cộng đồng Kitô hữu chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhận ra tính ưu việt của ân sủng. Nếu thiếu chiều sâu tinh thần, tính hiệp hành sẽ chỉ còn là hình thức. Tuy nhiên, điều chúng ta được kêu gọi không chỉ là biến các kinh nghiệm thiêng liêng đạt được ở nơi khác thành các qui trình cho cộng đoàn, mà còn sâu xa hơn, là để trải nghiệm các mối quan hệ hỗ tương là nơi chốn và hình thức của một cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa. Theo nghĩa này, trong khi dựa trên di sản tinh thần phong phú của Truyền thống, quan điểm hiệp hành góp phần đổi mới các hình thức của nó: một lời cầu nguyện mở ra cho sự tham gia, một sự biện phân được sống chung, và một năng lượng truyền giáo phát sinh từ việc chia sẻ và tỏa sáng như một sự phục vụ.
d) Đối thoại trong Thần Khí là một công cụ, mặc dù có những hạn chế của nó, nhưng cho phép lắng nghe chân thành để phân định những gì Chúa Thánh Thần đang nói với các Giáo hội. Việc thực hành đối thoại đã gợi lên niềm vui, sự ngỡ ngàng và lòng biết ơn và đã được trải nghiệm như một con đường canh tân biến đổi các cá nhân, các nhóm và Giáo hội. Từ "đối thoại" diễn tả nhiều hơn là nói chuyện đơn thuần: nó đan xen suy nghĩ và cảm xúc, tạo ra một không gian sống chung được chia sẻ. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói rằng sự hoán cải đang diễn ra trong cuộc đối thoại. Đây là một thực tại nhân chủng học được tìm thấy trong các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, những người tập trung lại với nhau trong tình đoàn kết để giải quyết và quyết định các vấn đề quan trọng đối với cộng đồng. Ân sủng mang lại kết quả cho trải nghiệm nhân bản này. Đối thoại "trong Thần Khí" có nghĩa là sống kinh nghiệm chia sẻ trong ánh sáng đức tin và tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa trong một bầu khí Tin Mừng đích thực trong đó tiếng nói không thể nhầm lẫn của Chúa Thánh Thần có thể được nghe thấy.
e) Vì tính hiệp hành được hướng đến sứ mệnh, nên các cộng đồng Kitô hữu phải tham gia vào tình liên đới với những người thuộc các tôn giáo, niềm tin và văn hóa khác, do đó, một mặt, tránh nguy cơ tự quy chiếu và tự bảo tồn, và mặt khác, nguy cơ mất bản sắc. Logic của đối thoại, được diễn tả trong việc học hỏi lẫn nhau và đồng hành cùng nhau phải trở thành đặc điểm của việc loan báo Tin Mừng, phục vụ những người nghèo đói, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và nghiên cứu thần học.
Các vấn đề cần xem xét
f) Để đạt được sự lắng nghe thực sự ý muốn của Chúa Cha, cần phải đào sâu các tiêu chí phân định Giáo Hội từ góc độ thần học để việc đề cập đến sự tự do và mới mẻ của Chúa Thánh Thần được phối hợp một cách thích hợp với sự kiện Chúa Giêsu Kitô đến "một lần là đủ" (Dt 10 :10). Trước hết, điều này ngụ ý xác định mối quan hệ giữa việc lắng nghe Lời Chúa được chứng thực trong Thánh Kinh, việc tiếp nhận Truyền thống và Huấn Quyền của Giáo Hội, và việc đọc các dấu chỉ của thời đại.
g) Vì mục đích đó, điều quan trọng là phải thúc đẩy các tầm nhìn nhân học và tâm linh có khả năng tích hợp và không chỉ đơn thuần đặt cạnh nhau các chiều kích trí tuệ và cảm xúc của kinh nghiệm đức tin, vượt qua bất kỳ khuynh hướng giản lược và nhị nguyên giữa lý trí và cảm giác.
h) Quan trọng là phải làm sáng tỏ cách thức cuộc đối thoại trong Thần Khí có thể tích hợp những đóng góp của tư tưởng thần học và khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh các mô hình phân định khác của Giáo hội được sử dụng như cách phương pháp "quan sát, phán đoán, hành động" hoặc các bước "nhận ra, giải thích, lựa chọn".
i) Những đóng góp mà Lectio Divina và các truyền thống linh đạo khác nhau, cổ xưa và gần đây, có thể cung cấp cho việc thực hành phân định cần được phát triển. Thật vậy, thật thích hợp để đánh giá cao tính đa dạng của các hình thức và phong cách, phương pháp và tiêu chí mà Chúa Thánh Thần đã gợi hứng qua nhiều thế kỷ và là một phần của di sản thiêng liêng của Giáo hội.
Đề nghị
m) Đề xuất rằng các Giáo hội nên thử nghiệm và thích nghi với cuộc đối thoại trong Thần Khí, và các hình thức phân định khác theo những cách mà họ có thể đánh giá là thích hợp rút ra từ các truyền thống tâm linh đa dạng liên quan đến nhu cầu và văn hóa của bối cảnh của họ. Các hình thức đồng hành thích hợp có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành này, giúp nắm bắt logic của nó và vượt qua những trở ngại có thể có.
k) Mỗi Giáo hội địa phương được khuyến khích trang bị cho mình những người thích hợp được đào tạo để tạo điều kiện và đồng hành trong các quá trình phân định Giáo hội.
l) Để làm sáng tỏ đời sống Giáo Hội, việc thực hành phân định có thể được áp dụng một cách hữu ích trong lĩnh vực mục vụ, theo một cách thức phù hợp với bối cảnh. Điều này sẽ làm cho chúng ta có thể dễ dàng nhận ra các đặc sủng hiện diện trong cộng đoàn, để giao phó các nhiệm vụ và thừa tác vụ một cách khôn ngoan. Vượt ra ngoài kế hoạch hoạt động đơn thuần, chúng ta sẽ có thể hoạch định những lộ trình mục vụ trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
(Còn tiếp)