Báo cáo tổng hợp của THĐ về Hiệp hành (3)

Thứ bảy - 04/11/2023 21:10  524
(Tiếp tục) 
 
thd23

3. Gia nhập Cộng đồng Đức tin: Khai tâm Kitô giáo
 
 
Đúc kết các ý kiến

A Khai tâm Kitô giáo là cuộc hành trình mà Thiên Chúa, qua thừa tác vụ của Giáo hội, giới thiệu chúng ta nhận biết đức tin Phục sinh và mở lối cho chúng ta bước vào sự hiệp thông mang chiều kích Ba Ngôi và Giáo Hội. Cuộc hành trình này có nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi bắt đầu và những nhấn mạnh khác nhau đặc trưng của truyền thống phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, việc lắng nghe Lời Chúa và hoán cải đời sống, cử hành phụng vụ và gắn kết với cộng đồng và sứ mạng của nó luôn gắn bó với nhau. Chính vì lý do này, hành trình dự tòng với sự tiệm tiến của các giai đoạn và bước đi của nó, là thước đo cho mọi kinh nghiệm của Giáo hội về việc cùng nhau bước đi.

B Việc khai tâm đưa chúng ta tiếp xúc với rất nhiều ơn gọi và thừa tác vụ trong giáo hội. Tất cả những điều này diễn tả khuôn mặt từ mẫu của Giáo Hội, một chứng tá thực tế dạy con cái mình bước đi bằng cách bước đi với chúng. Giáo hội lắng nghe họ và, khi nó trả lời những nghi ngờ và câu hỏi của họ, giáo hội được làm phong phú bởi sự mới mẻ mà mỗi người mang lại qua lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa của họ. Qua hoạt động mục vụ này, cộng đồng Kitô hữu gặp gỡ tính hiệp hành lần đầu tiên, mà thường không nhận thức đầy đủ về điều đó.

C Trước bất kỳ sự phân biệt nào về đặc sủng và thừa tác vụ, "tất cả chúng ta đều được rửa tội bởi một Thánh Thần để trở thành một thân thể" (1Cor. 12:13). Do đó, giữa tất cả những người đã được rửa tội, có một sự bình đẳng thực sự về phẩm giá và một trách nhiệm chung đối với sứ vụ, tùy theo ơn gọi của mỗi người. Nhờ sự xức dầu của Chúa Thánh Thần, Đấng "chỉ dạy mọi sự" (1Ga 2:27), tất cả các tín hữu đều có một bản năng tiếp nhận sự thật của Tin Mừng, cảm thức đức tin. Điều này bao gồm một sự đồng nhất tự nhiên nào đó với các thực tại thiêng liêng và khả năng nắm bắt những gì phù hợp với chân lý đức tin bằng trực giác. Các tiến trình hiệp hành nâng cao hồng ân này, cho phép sự  đồng thuận của các tín hữu (consensus fidelium) được xác nhận. Tiến trình này cung cấp một tiêu chuẩn chắc chắn để xác định xem một học thuyết hay thực hành cụ thể có thuộc về đức tin tông truyền hay không.

D Ân sủng của Lễ Hiện Xuống vẫn hiện hữu trong Giáo Hội qua Bí Tích Thêm Sức. Nó làm phong phú các tín hữu với sự dồi dào của các ân huệ của Chúa Thánh Thần. Nó kêu gọi họ phát triển ơn gọi riêng biệt của họ, bắt nguồn từ phẩm giá của bí tích rửa tội mà họ đã lãnh nhận, trong sứ vụ truyền giáo. Tầm quan trọng của nó đòi hỏi phải được nhấn mạnh nhiều hơn và cần được đặt trong mối quan hệ với sự đa dạng của các ân sủng và thừa tác vụ tạo ne dung nhan hiệp hnafh của Giáo hội.

E Việc cử hành Thánh Thể, đặc biệt là vào Chúa Nhật, là hình thức đầu tiên và cơ bản mà qua đó Dân Thánh của Thiên Chúa quy tụ và gặp gỡ nhau. Khi điều này không thể thực hiện được, cộng đoàn vẫn quy tụ lại để cử hành Phụng vụ Lời Chúa. Trong Thánh Thể, chúng ta cử hành mầu nhiệm ân sủng được ban cho chúng ta. Bằng cách kêu gọi chúng ta tham dự vào Mình và Máu của Người, Thiên Chúa biến chúng ta thành một thân thể, với nhau và với chính Người. Bắt đầu với việc Thánh Phaolô sử dụng thuật ngữ koinonia (xem  1Cor. 10: 16-17), truyền thống Kitô giáo đã trân trọng từ "hiệp thông" để chỉ sự tham gia đầy đủ vào Bí tích Thánh Thể, và bản chất của các mối quan hệ giữa các tín hữu và giữa các Giáo hội. Trong khi nó mở ra cho chúng ta việc chiêm ngưỡng sự sống thần linh, đến vực thẳm vô tận của mầu nhiệm Ba Ngôi, thuật ngữ này cũng đề cập đến 'tính thường nhật' trong các mối quan hệ của chúng ta: trong những cử chỉ đơn giản nhất mà qua đó chúng ta mở lòng ra cho nhau, hơi thở của Chúa Thánh Thần thực sự thổi nơi đây. Đó là lý do tại sao sự hiệp thông, xuất phát từ Bí tích Thánh Thể và được cử hành trong đó, định hình và hướng dẫn con đường hiệp hành.

F Từ Thánh Thể, chúng ta học cách nói rõ sự hiệp nhất và đa dạng: sự hiệp nhất của Giáo hội và sự đa dạng của các cộng đồng Kitô hữu; sự hiệp nhất của mầu nhiệm bí tích và sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ; sự hiệp nhất của việc cử hành và đa dạng các ơn gọi, đặc sủng và các thừa tác vụ. Không có gì cho thấy nhiều hơn Thánh Thể rằng sự hài hòa được tạo ra bởi Chúa Thánh Thần không phải là sự đồng nhất và mọi hồng ân của Giáo Hội đều nhằm mục đích gây dựng chung.

Các vấn đề cần xem xét

G Bí tích Rửa tội không thể được hiểu một cách riêng lẻ hoặc bên ngoài logic của việc khai tâm Kitô giáo, cũng không thể được hiểu theo cách cá nhân chủ nghĩa. Do đó, chúng ta cần khám phá thêm sự đóng góp mà một tầm nhìn thống nhất hơn về việc khai tâm Kitô giáo có thể mang lại cho sự hiểu biết về tính hiệp hành.

H Việc thực hành một cách trưởng thành cảm thức đức tin (sennsus fidei)  không chỉ đòi hỏi việc lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà còn là một đời sống trong vai trò môn đệ đích thực để phát triển ân sủng của Bí tích Rửa tội. Điều này cho phép chúng ta phân biệt hành động của Chúa Thánh Thần với các hình thức tư duy hoặc điều kiện văn hóa chi phối, hoặc với những vấn đề không phù hợp với Tin Mừng. Hiểu được việc thực hành cảm thức đức tin phải được đào sâu với suy tư thần học thích hợp.

I Suy tư về tính hiệp hành có thể mang lại những hiểu biết đổi mới về Bí tích Thêm sức, qua đó ân sủng của Chúa Thánh Thần thể hiện sự đa dạng của các ơn huệ và đặc sủng trong sự hài hòa của Lễ Hiện Xuống. Dựa trên các kinh nghiệm khác nhau của Giáo Hội, cần phải cân nhắc những cách thức để làm cho việc chuẩn bị và cử hành Bí Tích này trở nên hiệu quả hơn, để đánh thức nơi tất cả các tín hữu lời mời gọi xây dựng cộng đoàn, sứ mạng truyền giáo trên thế giới và làm chứng cho đức tin.

J Về mặt thần học mục vụ, điều quan trọng là phải tiếp tục nghiên cứu xem làm thế nào con đường dự tòng có thể cung cấp nguồn cảm hứng cho các con đường mục vụ khác, chẳng hạn như việc chuẩn bị hôn nhân, hoặc đồng hành trong việc lựa chọn các cam kết nghề nghiệp và xã hội, hoặc đào tạo cho thừa tác vụ có chức thánh, trong đó toàn thể cộng đồng giáo hội nên tham gia.

Đề nghị

K Nếu Thánh Thể định hình tính hiệp hành, thì bước đầu tiên chúng ta nên thực hiện là cử hành Thánh Lễ theo cách xứng đáng với ân sủng, với một ý nghĩa đích thực về tình bạn trong Đức Kitô. Phụng vụ được cử hành với sự chân thành là trường học đầu tiên và cơ bản của vai trò người môn đệ. Vẻ đẹp và sự đơn giản của nó nên huấn luyệnchúng ta trước bất kỳ chương trình đào tạo chính thức nào khác.

L Bước thứ hai đề cập đến nhu cầu rộng rãi được báo cáo là cần làm cho ngôn ngữ phụng vụ dễ tiếp cận hơn với các tín hữu và thể hiện sâu sắc hơn trong sự đa dạng văn hóa. Mà không đặt câu hỏi về sự liên tục với truyền thống và nhu cầu đào tạo phụng vụ tốt hơn, cần có suy tư sâu sắc hơn. Các Hội đồng Giám mục nên được giao phó một trách nhiệm rộng rãi hơn về vấn đề này, theo Motu Proprio Magnum principium.

M Bước thứ ba bao gồm cam kết mục vụ nhằm mở rộng việc cầu nguyện cộng đồng vượt ra ngoài việc cử hành Thánh lễ. Các hình thức cầu nguyện phụng vụ thay thế, cũng như các thực hành lòng đạo đức bình dân, trong đó phản ánh sự khác biệt của các nền văn hóa địa phương, là những yếu tố có tầm quan trọng lớn trong việc thúc đẩy sự tham gia của tất cả các tín hữu. Chúng giới thiệu các tín hữu với mầu nhiệm Kitô giáo và đưa những người ít quen thuộc với Giáo hội đến gần hơn với cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong số các hình thức đạo đức bình dân, lòng sùng kính Đức Mẹ nổi bật vì khả năng duy trì và nuôi dưỡng đức tin của nhiều người.

4. Người nghèo, những chủ thể trong hành trình của Giáo hội

Đúc kết các ý kiến


a) Giáo hội có bổn phận yêu thương người nghèo. Yêu thương đồng nghĩa với tôn trọng, tiếp đón và ghi nhận vai trò của họ trong lòng giáo hội. Nếu thiếu vắng yêu thương, mọi việc hỗ trợ thực phẩm, tiền bạc hoặc các dịch vụ xã hội tuy là quan trọng nhưng chưa đủ, cần phải xem xét đến phẩm giá con người và đối xử tôn trọng họ. Mỗi người cần được trao quyền để tự xác định phương thức phát triển của riêng mình hơn là trở thành đối tượng của hoạt động phúc lợi của người khác. Việc được công nhận và tôn trọng là những cách mạnh mẽ giúp họ có thể thực hiện điều này.

b) Sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo được ngầm hiểu trong đức tin Kitô giáo là: Chúa Giêsu, một người nghèo và khiêm nhường, kết bạn với những người nghèo khó, ngồi chung bàn với họ và lên án những nguyên nhân của nghèo đói. Đối với Giáo hội, lựa chọn ưu tiên cho người nghèo và những người bị gạt ra bên lề là một phạm trù thần học trước khi trở thành một phạm trù văn hóa, xã hội, chính trị hoặc triết học. Đối với Thánh Gioan Phaolô II, Thiên Chúa ban lòng thương xót của Ngài trước nhất cho người nghèo. Sự ưu tiên này có hệ quả đối với đời sống của tất cả các Kitô hữu, những người được kêu gọi nuôi dưỡng "cùng một tâm trí ... như Chúa Giê Su Ki-Tô" (Phi-líp-phê 2:5).

c) Cái nghèo không chỉ có một dạng duy nhất. Trong số nhiều khuôn mặt của những người nghèo, có những người thiếu những thứ họ cần để sống một cuộc sống có phẩm giá. Ngoài ra còn có di dân và người tị nạn; người bản địa, các dân tộc gốc và hậu duệ gốc châu Phi; những người bị bạo lực và lạm dụng, đặc biệt là phụ nữ; những người đang vật lộn với chứng nghiện; các nhóm thiểu số bị từ chối quyền lên tiếng một cách có hệ thống; người già bị bỏ rơi; nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, bóc lột và buôn người, đặc biệt là trẻ vị thành niên; lao động bị bóc lột; những người bị loại trừ về kinh tế, và những người sống ở ngoại vi. Những người dễ bị tổn thương nhất trong số những người dễ bị tổn thương, mà thay mặt họ cần phải vận động liên tục, bao gồm thai nhi và mẹ của chúng. Đại hội lắng nghe tiếng kêu của "người nghèo mới", gây nên bởi các cuộc chiến tranh và khủng bố gieo rắc tai họa cho nhiều quốc gia trên nhiều châu lục, và Đại hội lên án các hệ thống chính trị và kinh tế tham nhũng gây ra xung đột như vậy.

d) Bên cạnh các hình thức nghèo đói vật chất, nhiều người cũng trải qua sự nghèo nàn về tinh thần, được hiểu là thiếu ý nghĩa của cuộc sống. Mối bận tâm quá mức với bản thân có thể dẫn đến việc coi người khác là mối đe dọa, từ đó khiến chúng ta lại càng quay vào bên trong, thể hiện một loại chủ nghĩa cá nhân nhất định. Khi người nghèo về tinh thần và vật chất gặp gỡ nhau, họ bắt đầu một cuộc hành trình hướng tới việc tìm kiếm câu trả lời cho nhu cầu của nhau. Đây là một cách đồng hành cùng nhau làm cho viễn cảnh của Giáo Hội Hiệp Hành trở nên cụ thể, sẽ cho chúng ta thấy đầy đủ ý nghĩa trọn vẹn nhất của mối phúc Tin Mừng, "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó" (Mt 5: 3).

e) Đứng bên cạnh những người nghèo đòi hỏi chúng ta phải tham gia với họ trong việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta: tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của những người sống trong nghèo đói là cùng một tiếng khóc. Việc thiếu phản ứng đối với tiếng kêu này làm cho cuộc khủng hoảng sinh thái, và đặc biệt là biến đổi khí hậu, trở thành mối đe dọa đối với sự tồn vong của nhân loại. Tông huấn Laudate Deum, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô công bố vào đúng thời điểm khai mạc công việc của Thượng Hội Đồng, đã nhấn mạnh điều này. Giáo hội ở các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ hậu quả của biến đổi khí hậu hiểu rõ nhu cầu cấp bách phải thay đổi hướng đi, và đây là đóng góp của họ cho hành trình của các Giáo hội địa phương khác ở nhiều nơi trên thế giới.

f) Cam kết của Giáo hội phải nhắm vào nguyên nhân của nghèo đói và loại trừ. Điều này bao gồm các hành động để bảo vệ quyền của những người bị loại trừ, và có thể đòi hỏi sự lên án công khai những bất công, cho dù gây ra bởi các cấu trúc xã hội hay bởi các cá nhân, tập đoàn hoặc chính phủ. Điều cần thiết để lắng nghe tiếng nói của người nghèo là lắng nghe đòi hỏi và quan điểm của họ, và sử dụng ngôn từ của chính họ.

g) Các Kitô hữu có bổn phận cam kết tham gia tích cực vào việc xây dựng thiện ích chung và bảo vệ phẩm giá sự sống, lấy cảm hứng từ học thuyết xã hội của Giáo hội và cùng nhau làm việc theo nhiều cách thức khác nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự, công đoàn, các phong trào bình dân, các hiệp hội cơ sở, trong lĩnh vực chính trị, v.v. Giáo Hội vô cùng biết ơn họ. Cộng đồng có bổn phận hỗ trợ những người làm việc trong các lĩnh vực này trong tinh thần bác ái và phục vụ chân thành. Hành động của họ là một phần trong sứ mạng của Giáo Hội để loan báo Tin Mừng và để Nước Trời mau trị đến.

h) Cộng đồng Kitô hữu gặp gỡ dung nhan và thân xác của Đức Kitô, Đấng, mặc dù giàu có, nhưng đã trở nên nghèo vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người (xem 2Cor 8: 9). Cộng đồng được kêu gọi không chỉ gần gũi với người nghèo, mà còn học hỏi từ họ. Nếu hiệp hành có nghĩa là đồng hành cùng với Đấng là Đường, thì một Giáo hội hiệp hành cần đặt những người đang trải qua nghèo đói vào trung tâm của mọi khía cạnh của đời sống: qua những đau khổ của họ, họ có sự kinh nghiệm trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (xem Evangelii gaudium, số 198). Sự giống nhau của cuộc sống của họ với cuộc sống của Chúa làm cho những người nghèo là những sứ giả của ơn cứu độ được đón nhận như một ơn huệ và làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng.

Các vấn đề cần xem xét

i) Ở một số nơi trên thế giới, Giáo hội nghèo khó, cùng với những người nghèo khó, và vì những người nghèo khó. Có một nguy cơ thường trực, một nguy cơ cần hết sức tránh, khi nhìn nhận những người sống trong nghèo đói theo cách phân biệt "họ" và "chúng ta", như những "đối tượng" của đức ái của Giáo hội. Đặt những người đang trải qua nghèo đói vào trung tâm và học hỏi từ họ là điều mà Giáo hội phải làm ngày càng nhiều hơn.

j) Một mặt, việc lên tiếng mang tính ngôn sứ về các tình huống bất công, và những nỗ lực thuyết phục các nhà hoạch định chính sách hành động vì lợi ích chung, vốn đòi hỏi phải nhờ đến ngoại giao, mặt khác, phải được duy trì trong một sự căng thẳng năng động để không đánh mất đi sự tập trung rõ ràng hoặc hiệu quả. Đặc biệt, phải cẩn trọng để đảm bảo rằng việc sử dụng các quỹ công hoặc tư nhân của các tổ chức của Giáo hội không hạn chế quyền tự do lên tiếng vì những đòi hỏi của Tin Mừng.

k) Việc cung cấp các dịch vụ trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội, mà không phân biệt đối xử hay loại trừ bất cứ ai, là một dấu chỉ rõ ràng của một Giáo hội thúc đẩy sự hội nhập và tham gia của những người yếu thế nhất trong Giáo hội và xã hội. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này được khuyến khích xem mình là biểu hiện của cộng đồng Kitô hữu và tránh bác ái trở nên vô hồn. Họ cũng được khuyến khích liên kết và phối hợp với những người khác.

l) Giáo hội phải trung thực trong việc xem xét cách thức đáp ứng những đòi hỏi của công lý giữa những người làm việc trong các tổ chức liên kết của mình để đảm bảo nó hành động với sự nhất quán và toàn vẹn.

m) Trong một Giáo hội hiệp hành, tình liên đới cũng thể hiện dưới hình thức trao đổi ơn huệ và chia sẻ tài nguyên giữa các Giáo hội địa phương từ các khu vực khác nhau. Những mối quan hệ này thúc đẩy sự hiệp nhất của Giáo hội bằng cách tạo ra các mối liên kết giữa các cộng đồng Kitô hữu liên quan. Cần phải tập trung vào các điều kiện cần thiết để đảm bảo rằng các linh mục đến trợ giúp các Giáo hội cần giáo sĩ không chỉ cung cấp một giải pháp chức năng mà còn đại diện cho một nguồn lực cho sự phát triển của cả Giáo hội sai đi và Giáo hội tiếp nhận họ. Tương tự như vậy, cần phải đảm bảo rằng viện trợ kinh tế không thoái hóa thành việc cung cấp phúc lợi đơn thuần, nhưng cũng thúc đẩy tình liên đới Tin Mừng đích thực và được quản lý một cách minh bạch và đáng tin cậy.

Đề nghị
n) Học thuyết xã hội của Giáo Hội là một nguồn tài nguyên ít được biết đến. Điều này cần được giải quyết. Các Giáo hội địa phương được mời gọi không chỉ để làm cho nội dung của nó được biết đến nhiều hơn mà còn thúc đẩy sự tiếp nhận của nó thông qua các thực hành đưa lý thuyết vào hành động.

o) Kinh nghiệm gặp gỡ, chia sẻ đời sống chung và phục vụ những người sống trong nghèo đói và bên lề xã hội phải là một phần không thể thiếu trong tất cả các con đường đào tạo được cung cấp bởi các cộng đồng Kitô hữu: đó là một đòi hỏi của đức tin, không phải là một lựa chọn bổ xung Điều này đặc biệt đúng đối với các ứng viên cho thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến.

p) Là một phần của việc suy nghĩ lại thừa tác vụ phó tế, Giáo hội nên thúc đẩy một định hướng mạnh mẽ hơn đối với việc phục vụ những người nghèo.

q) Giáo huấn, phụng vụ và thực hành của Giáo Hội phải tích hợp một cách rõ ràng và cẩn thận hơn các nền tảng Kinh Thánh và thần học của hệ sinh thái toàn diện.

(Còn tiếp)
Theo dõi các bài khác: 
Báo cáo tổng hợp của THĐ về Hiệp hành (1): Giới thiệu 
Báo cáo tổng hợp của THĐ về Hiệp Hành (2): Số 1, 2

Tác giả: Trung Vũ

TIN BÀI KHÁC


***+***
xkta
lpv
gkpv
tvcv
***+***
ra khoi
lnth
LIÊN KẾT

 

 

 

11.jpg 8.jpg 9.jpg 10.jpg 13.jpg
PAGE FACEBOOK
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập374
  • Máy chủ tìm kiếm44
  • Khách viếng thăm330
  • Hôm nay19,324
  • Tháng hiện tại996,711
  • Tổng lượt truy cập79,000,162
Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây