9. Thánh Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm (1732 – 1773)
Thứ bảy - 16/09/2023 00:00
679
Ngày tử đạo: 7/11/1773
Thánh Vinh sơn Phạm Hiếu Liêm sinh năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định (Nay thuộc giáo xứ Phú Nhai, giáo phận Bùi Chu). Thân phụ là một thân hào trong thôn, thân mẫu là một người mẹ đạo đức, đã hết mình với việc giáo dục con cái. Năm 12 tuổi, cậu Liêm vào trong nhà Đức Chúa Trời ở Lục Thủy. Qua sáu năm học tập, cậu tỏ ra là người thông minh đạo đức, nên được các cha đòng Đa Minh thời đó đang phụ trách giáo phận Đông Đàng Ngoài để ý. Cha chính Espinnoza Huy đã chọn cậu vào số các thanh niên hưởng học bổng của Tây Ban Nha, gửi đi du học Manila (Philippines) tại trường Juan de Letran.
Sau ba năm học thành công xuất sắc, thày Liêm xin gia nhập dòng Đa Minh và lãnh tu phục ngày 09 tháng 9 năm 1753. Năm sau, thày tuyên khấn trọng thể cùng với ba tu sĩ đồng hương và lấy biệt hiệu là Vinh Sơn Hòa Bình (Vincente de la Paix). Tiếp đó, thày Vinh Sơn học thêm bốn năm thần học và được thụ phong linh mục năm 1758.
Được thụ phong linh mục rồi, cha Liêm liền trở về phục vụ quê hương. Về đến Trung Linh ngày 20 tháng 01 năm 1759, cha đã không cầm nổi nước mắt, vì vui mừng được gặp lại cha chính Huy ra đón tận bến đò, được tái ngộ cùng thân quyến, đồng bào, xóm làng, và nhất là giáo hữu đang nôn nao đón chờ ngày vinh quy của vị linh mục du học nước ngoài.
Trở về Việt Nam, trước hết cha Vinh Sơn được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Trung Linh. Cha đã đem hết tài trí và lòng nhiệt thành truyền đạt cho các chủng sinh những kiến thức đã thu thập được. Nhưng nguyện vọng của linh mục Vinh Sơn Hòa Bình lại là loan báo Tin Mừng bình an cho anh em. Chẳng bao lâu, cha rời chủng viện dấn thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao, và từ khi cha Jacinto Gia bị bắt, cha kiêm luôn cả vùng Lai Ổn (Nay thuộc giáo phận Thái Bình).
Hoạt động tông đồ của cha không chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng đến các làng ngoại giáo, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách. Tại bất cứ nơi nào, cha cũng luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên ai cũng yêu mến cha. Cha khích lệ mọi người thêm can đảm, cha an ủi những người buồn sầu, và không nề hà bất cứ điều gì vì lợi ích thiêng liêng của họ.
Dầu thành công trong công việc, cha Liêm không bao giờ tự mãn. Trong các thư của cha, ta còn đọc được: « Xin Đức Cha và cha bề trên cầu nguyện cùng Chúa cho con, khi dâng Lễ và trong kinh nguyện, để mỗi ngày con được hoàn thiện hơn, vui lòng đón nhận những khốn khó theo ý Chúa ». Năm 1773, khi cha Liêm đi giảng ở họ Lương Đống (Nay thuộc giáo phận Thái Bình), chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Các quan nghe tin, liền cho ông điều Cam đem quân vây bắt cha tại nhà ông nhiêu Nhuệ vào ngày 02 tháng 10. Sau một trận đòn chí tử, họ trói cha và hai cậu giúp lễ là Matthêu Vũ và Giuse Bích lại, rồi đem nộp cho chánh tổng Xích Bích. Viên chánh tổng giam cha 12 ngày, không thấy các tín hữu đưa tiền chuộc, sau đó mới chịu giải lên Phố Hiến nộp cho quan trấn. Ở đây cha Liêm gặp một linh mục cùng dòng, cha Castaneda Gia đã bị giam ở đó. Hai cha vui mừng cùng nhau chia sẻ ngọt bùi trong cảnh tù tội.
Ngày 20 tháng 10 quan trấn bắt hai cha mang chiếc gông có ghi bốn chữ « Hoa Lang Đạo Sư », rồi trao cho quan phủ Thần Khê giải hai cha và hai cậu giúp lễ về kinh đô Thăng Long, ra mắt chúa Trịnh Sâm. Chính tại đây đã diễn ra Hội Đồng Tứ Giáo. Có một quan lớn là chú của chúa Trịnh Sâm. Mẹ của quan lớn, bà Thượng Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn có đạo. Nhiều lần bà khuyên con tòng giáo. Quan lớn liền nảy ra sáng kiến triệu tập đại diện bốn tôn giáo để trình bày về đạo của mình. quan nói: « Lòng ta chuộng sự thật muốn biết đạo nào là đạo chính để thờ phượng ». Cuộc trao đổi kéo dài ba ngày, mỗi ngày một vấn đề về nguồn gốc con người, mục đích cuộc đời và đời sau của mỗi người. Cha Liêm và cha Gia đại diện đạo Thiên Chúa đã khéo léo trình bày đến nỗi quan lớn phải trầm trồ khen ngợi, nhưng vì biết Phủ Chúa vẫn cấm đạo, nên quan vẫn ngần ngại chưa theo.
Sau đó ít bữa, hai cha có cơ hội để nói về đạo với Thái Tôn, mẹ của chúa Trịnh Sâm. Bà vì tò mò, đã cho vời các ngài vào. Không nói rõ nội dung buổi nói chuyện ra sao, nhưng cuối cùng Thái Tôn hỏi: « Nếu chỉ có đạo các thày là đạo thật thì những người không theo đạo ấy, chết rồi đi đâu? ». Cha Liêm đáp: « Bẩm bà, sa hỏa ngục ạ ». Nghe thế, Thái Tôn Dương Hậu đùng đùng nổi giận, bà dùng uy tín ép con là Trịnh Sâm phải xử tử hai vị linh mục. Do đó, ngày 4 tháng 11, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đã lên án trảm quyết hai cha, hai cậu giúp lễ bị kết án lưu đầy, đến khi nộp 100 quan tiền chuộc thì được trả tự do.
Ngày 7 tháng 11, hai cha bị đem đi xử, dân chúng đi xem rất đông. Khi đoàn người dừng trước hoàng cung, một viên quan đọc bản án. Theo phong tục thời đó, lúc này vua có thể ân xá cho tội nhân. Một viên quan lớn tiếng nói: « Hoa Lang Đạo đã bị nghiêm cấm, nhưng cho đến nay, chưa người dân Việt nào bị xử tử vì đạo này nên vua đại xá cho tên Liêm ». Nghe thế cha Liêm vội lên tiếng thưa rằng: « Cha Gia bị án trảm quyết vì lẽ gì thì cũng phải lên án trảm quyết cho tôi vì lẽ đó. Cha Gia là đạo trưởng, tôi cũng là đạo trưởng. Nếu luật nước không kết án tôi thì cũng không được kết án cha Gia. Vì tôi là công dân nước Việt, lẽ ra tôi phải giữ luật nước hơn ngài. Nhưng nếu giết cha Gia, còn tôi lại tha, án của vua không công bằng. Yêu cầu tha thì tha cả hai, giết thì giết cả hai. Thế mới là án công bằng ».
Nghe lời lẽ minh bạch của cha Liêm, quân dân đều ngậm ngùi và muốn hai cha được tha. Nhưng bản án đã công bố, nhất là vì nể Thái Tôn, nên quan phải y lệnh dẫn hai sứ giả Tin Mừng ra pháp trường Đồng Mơ ngoài thành Thăng Long xử trảm. Hai cha vui mừng hoan hỷ, tạ ơn Chúa, đọc kinh Tin Kính, hát kinh Salve Regina (Kinh lậy Nữ Vương). Cha Liêm nhận một nhát dao và cha Gia nhận ba nhát. Đầu hai vị rơi xuống, giáo dân cũng như lương dân tranh nhau thấm máu các vị anh hùng tử đạo. Xác hai vị được rước về giáo xứ Trung Linh an táng.
Ngày 20 tháng 5 năm 1906, Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm lên bậc Chân Phước. Và ngày 19 tháng 6 năm 1988, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.