Con người và chiếc mặt nạ đầu tiên
Chủ nhật - 16/02/2025 06:31
831
Trong cuộc sống, chúng không lạ lẫm gì với những chiếc mặt nạ. Nói tới mặt nạ, chúng ta liên tưởng ngay tới những chú hề trong rạp xiếc, những lễ hội hóa trang, hay như ở Việt Nam mỗi dịp Tết Trung thu… hoặc chiếc mặt nạ thẩm mĩ và nhiều hình thức khác nữa. Đó là những chiếc mặt nạ giúp cuộc đời con người thêm ý vị, tươi trẻ và niềm vui. Tuy nhiên, cũng có những chiếc mặt nạ được sử dụng nhằm mục đích xấu, hay để đánh lừa và che giấu sự thật, nhất là trong một kỉ nguyên kĩ thuật số, thế giới ảo lên ngôi và chiếm lĩnh cuộc sống của chúng ta, thì thế giới ảo cũng trở thành một môi trường tiềm năng, đầy dẫy những chiếc mặt nạ đủ loại, đủ kiểu, có thể che giấu sự thật hoặc đánh lạc hướng, lừa dối người khác. Quả vậy, chỉ với một tài khoản, một địa chỉ ID, chúng ta có thể khoác lên mình chiếc mặt nạ ảo rất tinh vi, mà sau chiếc mặt nạ ấy có thể là khuôn mặt thật đầy “bụi bẩn, tàng nhan, mụn nhọt”, chất chứa đầy nọc độc của sự giả dối và những âm mưu. Như thế, dù trong thế giới thật hay thế giới ảo, dù xấu hay tốt, có thể nói chúng ta đang sống trong những thế giới của những chiếc mặt nạ.
Mặt nạ, theo từ điển Hoàng Phê có ba nghĩa, theo chức năng: để che giấu mặt thật, để che đậy bản chất xấu xa bên trong, và để tránh tác hại của chất độc, chất phóng xạ. Theo đó, mặt nạ là “một thứ” dùng để che đi khuôn mặt hay một thực tại nào đó ẩn giấu bên dưới, có thể mang nghĩa tích cực hoặc tiêu cực, nhằm mục đích giải trí, mua vui, làm đẹp, hoặc tệ hơn, khi một người đeo mặt nạ có ý nói người đó sống giả tạo, hòng che giấu một khuyết điểm hoặc một hành vi, một sự thật, một bản tính xấu nào đó… Thường thì mặt nạ, nếu là vật chất, được tô vẽ và được trang trí rất đẹp, lung linh hấp dẫn để thu hút người xem, hay làm đẹp, hoặc đơn giản để người khác không nhận ra mình; còn người sống mặt nạ giả tạo luôn cố dùng những xảo thuật để xử lý thật tinh tế nhằm che đi những khuyết điểm, những tật xấu, hay những âm mưu ẩn sâu trong tâm hồn. Thực tế cho thấy trong cuộc sống thường ngày và nhất là trên mạng nhan nhản những câu chuyện đáng buồn, thậm chí giở khóc giở cười mỗi khi những chiếc mặt nạ như thế bị lật tẩy…Ở đây, người viết không nhắm tới việc trình bày những chiếc mặt nạ trong các dịp lễ hội, hay trong thẩm mĩ, nhưng mạn phép trình bày đôi dòng suy tư về chiếc mặt nạ đầu tiên ẩn kín, che giấu sự thật về chính con người…
Chiếc mặt nạ đầu tiên
Trình thuật chương đầu sách Sáng Thế là một bức tranh tuyệt đẹp về tình trạng thánh thiện nguyên thủy: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (x. St 2, 25). Nơi đó, con người qua hình ảnh Adam và Evà sống “như mình là” trong tương quan với Thiên Chúa, với tạo vật và với nhau. Điều này được thể hiện qua sự trần truồng và tình yêu thuở ban đầu. Nói về tình trạng trần truồng và sự thánh thiện nguyên thủy, trong Thần học về thân xác, Đức thánh Giáo hoàng đã có những diễn tả thật hay và sâu sắc. Chẳng hạn, “khi nhìn nhau, gần như là họ nhìn qua chính mầu nhiệm tạo thành, người đàn ông và đàn bà nhìn thấy chính mình còn trọn vẹn hơn và rõ ràng hơn là nhìn thấy qua chính thị giác, nghĩa là qua con mắt thân xác. Quả thật họ nhìn nhau và hiểu biết nhau với cái nhìn nội tâm hoàn toàn bình an, đó vố chính là điều tạo ra sự thân mật viên mãn giữa các ngôi vị”; hay ở một đoạn khác, “sự trần truồng nguyên thủy mà không bị đè nặng bởi sự xấu hổ đối với nhau bộc lộ một sự tự do nội tâm của con người…”
Quả thật, Kinh Thánh đã diễn tả rất hay thực tại thánh thiện thuở ban đầu ấy. Lúc đó, chắc chắn sự giả dối chưa len lỏi và làm biến chất con người. Trái lại, với khuôn mặt thật như mình là và có ấy, con người không xấu hổ, không sợ hãi hay chạy trốn khi đối diện với Chúa và với nhau. Qua đó, trình thuật cho chúng ta thấy, con người chỉ có thể sống tương quan với Thiên Chúa cách trọn vẹn khi sống trong tình trạng thánh thiện và tinh tuyền. Hay có thể nói cách ví von là thuở ban đầu, con người không đeo mặt nạ.
Thế nhưng, sự thật phũ phàng là con người không thể và không muốn sống mãi tình trạng thánh thiện nguyên thủy đó. Cũng trong Sáng Thế Ký, trình thuật sa ngã (St 3) đã cho chúng ta thấy tội lỗi đã len lỏi và phá hủy khuôn mặt thánh thiện thuở ban đầu. Để rồi, sau khi phạm tội, khi khuôn mặt là hình ảnh Thiên Chúa bị vấy bẩn, chiếc mặt nạ đầu tiên xuất hiện và con người buộc phải chấp nhận đeo chiếc mặt nạ ấy. Chiếc mặt nạ đầu tiên là chiếc mặt nạ của sự xấu hổ, của sự trần truồng, khi con người không chấp nhận sự thật về chính mình. Sự sa ngã đập tan ảo mộng bằng Thiên Chúa của con người.
Cũng vậy, khi nhận ra mình trần trường nghĩa là nhận ra mình chỉ là một thụ tạo thấp hèn, yếu đuối, con người đã sợ hãi, chạy trốn Thiên Chúa cùng với những hậu quả do tội lỗi gây nên là đau khổ và phải chết. Hình ảnh con người kết áo bằng áo bằng da có thể coi như một biểu tượng của chiếc mặt nạ đầu tiên của con người: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân (x. St 3, 7). Chiếc mặt nạ mà biểu tượng là “lá vả” ấy che đi sự thật về thân phận con người. Để rồi kể từ ngày đó, con người sống với Chúa với nhau bằng những chiếc mặt nạ, nghĩa là bằng sự phản bội, sự dối trá… và nhất là sự tội và sự chết.
Như thế, trình thuật Sáng thế đã vén mở hình ảnh chiếc mặt nạ đầu tiên, chiếc mặt nạ không phải bằng vật chất hay bằng lá vả, nhưng chiếc mặt nạ ấy được tô vẽ bằng một ý thức về sự xấu hổ, ý thức về tội, với sự sợ hãi khi phải đau khổ và về sự chết. Để rồi, dù chẳng muốn, nhưng vì “mắt đã mở ra”, nên con người phải học cách chấp nhận và mang chiếc mặt nạ ấy suốt đời, kéo theo cái chết và sự hư mất đời đời. Tuy vậy, Thiên Chúa không nỡ nhìn con người phải hư mất, nhưng khởi đi từ lời hứa cứu độ (x St 3,15), Ngài đã tiệm tiến thực hiện chương trình cứu độ, hay nói cách khác là để giúp con người lột bỏ chiếc mặt nạ đang giam hãm con người, đưa con người vào trong tương quan sự sống đích thực với Thiên Chúa. Dự án thần linh nhiệm lạ này được hoàn tất trong cái chết và sự phục sinh của Con Một Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.
Tóm lại, trình thuật Sáng Thế mạc khải cho chúng ta hình ảnh đầu tiên về chiếc mặt nạ mà con người mang nơi mình. Chiếc mặt nạ mà nơi đó mầm mống của tội lỗi đã được gieo vào khiến con người không dám và cũng chẳng thể lột bỏ chiếc mặt nạ ấy. Và như thế chiếc mặt nạ đầu tiên ấy giam hãm con người, che lấp và làm méo mó hình ảnh Thiên Chúa – khuôn mặt nguyên thủy của con người, mà nếu không có một Đấng để lột chiếc mặt nạ ấy, để chữa lành những vết thương nơi con người, thì con người sẽ phải hư mất đời đời.
Những chiếc mặt nạ của con người
Như đã nói, trong cuộc sống có rất nhiều mặt nạ mang nghĩa tích cự giúp con người làm đẹp, giải trí hay để ứng xử và sống hài hòa với nhau. Tuy nhiên, ở đây, người viết muốn hướng tới chiếc mặt nạ nhằm mục đích tiêu cực, nghĩa là che đậy sự thật, che giấu những hành vi tội lỗi. Quả vậy, sau khi sa ngã, tội lỗi khiến con người không còn tình yêu và sự thánh thiện thuở ban đầu, nhưng phải mang nơi mình chiếc mặt nạ của tội nguyên tổ, con người sống trong tình trạng tội lỗi và phải sống mặt nạ với Thiên Chúa, với tạo vật và với nhau, cũng như với chính mình. Từ đó, cuộc sống và lịch sử nhân loại tràn ngập những chiếc mặt nạ của giả dối, của tội lỗi, ích kỉ, âm mưu, toan tính, chết chóc và hư mất.
Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta biết, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,27), một hình ảnh hoàn hảo và thánh thiện. Trong Ki-tô giáo, trong tất cả các thụ tạo hữu hình, chỉ có con người có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa của mình; là thụ tạo duy nhất trên trái đất Thiên Chúa dựng nên vì chính họ… mỗi con người là một ngôi vị, bởi vì nó mang trong hữu thể của nó hình ảnh của Thiên Chúa, nên có phẩm giá là một ngôi vị. Chúng ta là những icones: thánh tượng của tính Thiên Chúa khôn dò. Như thế ấy là phẩm giá trác tuyệt của nhân ngôi (personne humaine)… nhưng vô phúc thay, sự mờ lạt hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta che đậy ngôi vị con người của chính nó…
Như thế, có thể nói thuở ban đầu khi được chia sẻ ngôi vị Thiên Chúa, ngôi vị con người là một hữu thể có bản tính lý trí và tự do, nhưng khi sa ngã, khi phải khoác lên mình chiếc mặt nạ, thì cũng ngôi vị ấy không còn tinh tuyền và tròn trịa, nhưng đã bị méo mó vì tội lỗi và dễ bị tổn thương. Khác với ngôi vị Thiên Chúa, theo nghĩa loại suy và thanh lọc những khiếm khuyết mà thụ tạo vốn có do tội lỗi, sau khi sa ngã, con người không còn là một hữu thể như mình là thuở ban đầu, một hữu thể tương giao thân tình với Thiên Chúa, nhưng là một hữu thể bị tổn thương và hướng chiều về cái ác cũng như phải đau khổ và phải chết. Chính vì thế, con người không ngừng tô vẽ lên chiếc mặt nạ thuở ban đầu ấy bằng ích kỉ, tham vọng… hòng có thể khẳng định mình qua ảo vọng bá chủ và muốn trường sinh, để rồi phủ nhận và loại trừ Thiên Chúa, tàn phá thiên nhiên và thống trị lẫn nhau.
Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ cách riêng đầy dẫy những trang sử của chiếc mặt nạ của sự giả dối và độc ác, cùng những hậu quả tàn khốc mà những chiếc mặt nạ ấy đem lại, khi những âm mưu mà con người đã và đang thực hiện để chống đối, gây đau khổ và tiêu diệt lẫn nhau. Con người không dám sống và cũng không thể sống mà không đeo mặt nạ vì con người không dám đối diện và chấp nhận sự thật về chính mình. Ngay cả trong tình yêu, hay nơi gia đình, những thực tại thiêng liêng nhất cũng không thể tránh khỏi những chiếc mặt nạ ấy. Không những thế, những chiếc mặt nạ mà con người mặc lên mình mỗi ngày, ngày càng được trang hoàng được tô vẽ cách mĩ miều tinh vi để che đi cách tinh tế nhất những khuyết điểm nhỏ nhất bộ mặt thật của con người, nơi đầy dẫy những tội lỗi và sự chết.
Chúng ta có lẽ nghe đâu đó câu chuyện của chú hề, vì nghề nghiệp luôn phải đeo chiếc mặt nạ để biểu diễn, và quen với chiếc mặt nạ đến nỗi khi bỏ mặt nạ để trở về là chính mình, không những chính anh ta không được người khác, nhất là khán giả nhìn nhận, mà chính anh ta cũng không thể chấp nhận chính mình, không tự tin, không có niềm vui… để rồi cuối cùng anh ta lại chỉ là chính mình khi có chiếc mặt nạ. Cũng vậy trong cuộc sống hiện đại, cùng với việc chúng ta đôi khi hay nhiều lúc sống giả tạo với nhau, phải sống với nhau bằng những chiếc mặt nạ, thì trong một thế giới mà mạng ảo lên ngôi với những “nick ảo”, nhiều người sẵn sàng tạo ra và khoác lên mình những chiếc mặt nạ thật mĩ miều, có thể đơn giản để giải trí, hay đơn thuần là để thể hiện bản thân, nhưng cũng có không ít người lợi dụng những chiếc mặt nạ ảo đó để thực hiện những âm mưu đen tối và tội lỗi… Như thế, chiếc mặt nạ đã trở thành một thứ không đơn thuần để mua vui, giải trí, cũng không phải để làm đẹp như trong thẩm mĩ viện, nhưng ngày nay khi nhắc tới mặt nạ thường người ta nghĩ tới sự giả tạo, sự lừa bịp có thể gây hại cho nhiều người.
Không những thế, những chiếc mặt nạ còn len lỏi cả vào nơi những môi trường được coi là thánh thiện, đó chính là Giáo hội và nơi những con người thánh hiến, nơi mà lẽ ra những chiếc mặt nạ là thứ không thể chấp nhận. Dẫu vậy, vẫn mang nơi mình thân phận con người với sự yếu đuối vốn có, nên dù sống trong bậc nào, chúng ta vẫn còn thấy không thiếu những chiếc mặt nạ. Để rồi với bộ mặt thật có thể đầy những vết nứt, chúng ta phô ra trước người khác, với bề trên, bề dưới hay với bạn bè và ngay cả những người thân nhất của chúng ta những nét mĩ miều của những chiếc mặt nạ mà chúng ta đang khoác và tô vẽ mỗi ngày, khiến khuôn mặt thật của chúng ta ngày càng bị che lấp và khó lộ tẩy.
Theo đó, việc sống mặt nạ với nhau khiến một cuộc sống, một thế giới dù nói rất nhiều về công lý và sự thật, nhưng công lý, bình an, sự thật luôn là thứ xa xỉ và một giấc mơ của con người. Điều này được thể hiện qua bao hiện tượng, câu chuyện đau lòng trong xã hội mà chúng ta đôi khi hay nhiều lúc là thủ phạm, nhưng nhiều khi hay đôi lúc lại trở thành những nạn nhân, những con mồi ưa thích và đáng thương của những âm mưu, qua những lời ngọt ngào tựa như ma quỷ xưa ẩn sau chiếc mặt nạ là con rắn, và còn mĩ miều hơn nữa trong thế giới ngày hôm nay.
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng lột mặt nạ con người
Quả vậy, đức tin Ki-tô giáo dạy chúng ta rằng Thiên Chúa không bỏ mặc con người phải hư mất, nhưng đã hứa và thực hiện chương trình cứu độ ấy. Nói cách khác Thiên Chúa không chấp nhận và không muốn con người đeo mãi chiếc mặt nạ và phải chết với chiếc mặt nạ của sự giả dối và tội lỗi ấy. Chính vì thế, cách tiệm tiến, Thiên Chúa từng bước lột tẩy chiếc mặt nạ đang giam hãm con người, cũng như khiến con người huyễn hoặc về chính mình. Nhờ đó, từng bước, Thiên Chúa dẫn đưa con người về tình trạng thánh thiện thuở ban đầu để được tương giao trong sự thật mà không có sự cho phép hiện hữu của bất cứ chiếc mặt nạ nào. Để khi thời kì đã mãn, để hoàn tất chương trình nhiệm lạ ấy, Đức Ki-tô đã Nhập thể làm người. Tuy Ngài sống trọn vẹn thân phận con người, nhưng Ngài không mang nơi mình bất cứ hình thức nào của chiếc mặt nạ tội lỗi. Trái lại Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa thật và là người thật là một con người mới, con người hoàn hảo của sự thật, vộ tội, con người không có sự xấu hổ, không sợ hãi và chạy trốn. Trong tư cách Ađam mới Chúa Giê-su đã lật tẩy chiếc mặt nạ của dối trá và phơi bày sự thật của con người ra trước ánh sáng, để rồi trước khuôn mặt thật đầy bầm dập nhơ nhuốc nhưng là thật nhất của con người, Chúa Giê-su đã dùng chính giá máu của mình qua cuộc khổ mạn và phục sinh để làm mới lại, để tẩy trắng và lột bỏ chiếc mặt nạ của con người, Ngài không những trả lại cho con người khuôn mặt đáng yêu thuở ban đầu, nhưng còn nâng lên và trang hoàng cho khuôn măt ấy lộng lẫy và xứng đáng với Thiên Chúa Cha.
Tin Mừng đã khắc họa hình ảnh một con người Đức Giê-su luôn vâng phục tuyệt đối Chúa Cha và nhiệt tâm trong việc thực thi sứ mạng và hoàn tất chương trình cứu độ, mang lại ánh sáng, sự thật và sự sống cho con người. Trước hết, trong cuộc sống công khai, nhiều lần Đức Giê-su quyết liệt trong việc lật tẩy những chiếc mặt nạ giả hình, dối trá của con người, cách riêng qua hình ảnh một số lãnh đạo Do Thái, hay nhóm Pha-ri-sêu, hay thậm chí từng bước cắt tỉa chính các môn đệ. Qua đó, Ngài từng bước sự tham lam ích kỉ của con người thời đại và nhất là lật tẩy khuôn mặt chết chóc mà con người phải mang theo. Để rồi, cuối cùng với sự chết và sự phục sinh, Chúa Đức Giê-su không những trả lại cho con người khuôn mặt xứng đáng với Chúa Cha, nhưng còn nâng con người lên và đưa vào trong tương giao tình yêu sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa…
Được ủy thác chân lý và trao truyền chân lý, Giáo hội mang nơi mình sứ mạng là sứ giả của sự thật. Vì thế, trong suốt lịch sử Giáo hội luôn lên tiếng và đứng về phía sự thật, để lật tẩy những tấm mặt nạ của con người thời đại. Để rồi cũng như Thầy mình, Giáo hội thường gặp phải những chống đối, bắt bớ... Nói như thế không phải tất cả mọi thành phần Giáo hội đều sống sự thật, nhưng vì vẫn còn đó những người đã tin và theo Chúa nhưng vẫn đeo mặt nạ để che lấp khuôn mặt đầy tội lỗi của mình trong chính Giáo hội. Để rồi khi những chiếc mặt nạ rớt xuống, Giáo hội bị đâm thâu, thân mình Đức Ki-tôi tiếp tục bị lở loét và đau đớn vì sự bất trung ấy.
Dẫu vậy, với niềm xác tín luôn có Chúa Thánh Thần đang hoạt động và hướng dẫn, Giáo hội vẫn trung kiên và trung thành dù có những lúc bầm dập bởi thù trong hay giặc ngoài, nhưng luôn làm nhiệm vụ lật bỏ những chiếc mặt nạ của thế gian, ma quỷ và của chính mình, để mỗi ngày Giáo hội nên xứng đáng hơn với tư cách là Hiền Thê của Đức Ki-tô, một trợ tá tương xứng của Đức Ki-tô cho con người trong thế giới hôm nay.
Tắt một lời, chúng ta đang và vẫn phải sống trong một thế giới của đủ thứ mặt nạ của sự tội. Nhưng nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô, chúng ta, nhờ Bí tích rửa tội đã được gột rửa và trả lại sự tinh tuyền cho khuôn mặt thật của sự sống. Tuy nhiên, để có thể khoác lên mình khuôn mặt xứng đáng, chúng ta có đủ can đảm để cho Chúa Ki-tô lột bỏ những chiếc mặt nạ chúng ta đang mang nơi mình hay không? Đó là một câu hỏi mà mỗi chúng ta được tự do đáp trả, để rồi chỉ khi chúng ta chấp nhận để Chúa lột đi chiếc mặt nạ tội lỗi đang giam hãm, chúng ta mới có thể đạt tới tự do đích thực, tự do mà chiếc mặt nạ của tội lỗi không thể làm méo mó hay không cần những chiếc mặt nạ của sự giả tạo che giấu nữa.
Ước gì đức tin nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, là điều kiện bắt buộc cho một thức tỉnh về kích thước ngôi vị nơi mỗi người… Quả thật, sự quên lãng hình ảnh Thiên Chúa trong con người thực thái quá, nên khiêm tốn chính là cách trị liệu tất yếu cho sự biểu lộ của hình ảnh ấy trên thế giới này và bên kia cái chết. Từ đấy ngôi vị sẽ thực hiện đúng những nối kết của các cái thái quá. Từ chỗ bị vật thể hóa, trần tục hóa, nó lại được thần thánh hóa; từ chỗ bị co rút vào tự ngã và bất khả thông, nó trở thành cởi mở cho kẻ khác, liên đới với tha nhân, từ chỗ lệ thuộc vào một định mệnh không quay đầu trở lại và bị hạ nhục, sau cùng nó tự thấy mình được tôn vinh cho một thế giới mới xuất hiện.
Cf. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Hồng Đức, tr. 785
Cf. Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II, Thần học về Thân xác, Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh, Đgm Luy Nguyễn Anh Tuấn dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 111
Cf. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 356-357
Cf. Joseph Dore, Tự điển Thần học Công giáo, Những chủ đề lớn của đức tin, nxb. Tôn giáo, tr. 481-482
Cf. Gonzalo Lobo Mendez, Thiên Chúa duy nhất và Ba ngôi, Giuse Vũ Ngọc Tứ chuyển ngữ, Nxb. Tôn giáo, tr. 210
Cf. Joseph Dore, Tự điển Thần học Công giáo, Những chủ đề lớn của đức tin, nxb. Tôn giáo, tr. 483-484