Cầu nguyện là sức mạnh của người có niềm tin. Vì thế, mỗi tôn giáo đều có những hình thức cầu nguyện khác nhau, có thể bằng những bản kinh mang tính mô mẫu hoặc đơn giản qua những tâm tình tự phát, cá nhân hay cộng đoàn, giúp tín đồ của mình dễ dàng chìm đắm và có thể gặp gỡ Đấng Chí Tôn, hay một thực tại thần linh vượt lý trí con người. Cũng như các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, người tín hữu Công Giáo cũng cầu nguyện và luôn được mời gọi siêng năng, liên lỉ cầu nguyện như chính lệnh truyền của Chúa Giê-su: “hãy cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Quả vậy, Giáo hội luôn coi cầu nguyện như là “hơi thở của đức tin”, một nhu cầu sống còn, vì chính khi và chỉ khi cầu nguyện, con người được gặp gỡ và hiệp thông với Thiên Chúa. Trong đức tin Công giáo, đời sống cầu nguyện không phải đặt nền tảng trên một bộ kinh đồ sộ hay một khảo luận thần học thâm sâu, nhưng xoay quanh một lời kinh thật đơn sơ, ngắn gọn, nhưng do chính Chúa Giê-su truyền dạy, đó là Kinh Lạy Cha.
Chính vì thế, “mỗi người có thể dâng lên Chúa những lời kinh khác nhau tùy nhu cầu, nhưng luôn phải bắt đầu bằng kinh nguyện căn bản là Lời Kinh Chúa dạy như là lời kinh nền tảng”. Theo chiều hướng đó, Kinh Lạy Cha là nền tảng và trung tâm của đời sống cầu nguyện Ki-tô giáo, bởi đây lời kinh chính Chúa Giê-su đã dạy và sống cách trọn vẹn. Đồng thời, đây cũng là lời kinh của Hội Thánh, lời kinh truyền giáo và lời kinh của chúng ta. Để mỗi khi đọc, suy gẫm kinh Lạy Cha, chúng ta không những cầu nguyện cho việc truyền giáo, kín múc sức mạnh để truyền giáo, nhưng nhất là khi sống trọn vẹn lời kinh này theo gương Chúa Giê-su, chúng ta còn đang thực sứ mạng truyền giáo của mình trong thế giới và giữa con người hôm nay.
1. Lời kinh Chúa dạy
Là một người Do Thái mộ đạo, chắc chắn Chúa Giê-su cũng cầu nguyện và quen với việc cầu nguyện của đạo Do Thái. Theo đó, dù là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, nhưng “khi trở thành Con Đức Trinh Nữ, cũng đã học cầu nguyện nơi thân mẫu Người… bằng những lời kinh và âm điệu của dân Người, trong Hội đường và trong Đền Thờ…” Không những thế, Tin Mừng cũng mạc khải cho chúng ta biết Đức Giê-su là con người của cầu nguyện và Ngài chính là mẫu gương cầu nguyện hoàn hảo nhất. “Đức Giê-su cầu nguyện trước những thời điểm quyết định trong sứ vụ của Người: trước khi Chúa Cha làm chứng về Người lúc chịu phép rửa, lúc Người Hiển Dung, và trước khi Người hoàn thành ý định yêu thương của Chúa Cha bằng cuộc thương khó của Người”. Chính vì thế, khi các môn đệ thấy các môn đệ ông Gioan cầu nguyện, và nhất là thấy Thầy mình luôn cầu nguyện thẳm sâu, nỗi khao khát thiết thực, ước muốn có một công thức, một lời kinh để cầu nguyện như Thầy thúc đẩy các ông xin Chúa dạy cầu nguyện. Tin Mừng kể lại “Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông” (Lc 11,1). Đáp lại nỗi khát khao bỏng cháy ấy, Chúa Giê-su đã “trao cho các môn đệ của Người và cho Hội Thánh của Người lời kinh căn bản của Ki-tô giáo. Thánh Luca đưa ra bản văn ngắn của lời kinh này (có năm lời cầu xin (Lc 11, 2-4)), còn thánh Mátthêu thì đưa ra bản giải thích nhiều hơn (có bảy lời cầu xin (Mt 6, 9-13)). Truyền thống phụng vụ của Hội Thánh đã giữ bản văn của thánh Mátthêu…”
Thật lạ, Chúa Giê-su không để lại cho chúng ta một công thức được lặp đi lạp lại cách máy móc, cũng chẳng phải những lời cầu nguyện dài dòng, phức tạp, nhưng Ngài đã dạy một lời kinh rất đơn sơ, mà tất cả những người tin vào Ngài, và muốn gặp gỡ Chúa Cha đều dễ thuộc, dễ thực hành và coi đó như lời kinh quan trọng nhất khi cầu nguyện, đó là Kinh Lạy Cha. Lời kinh này gồm một lời thưa và bảy lời cầu. Ba lời cầu cho Cha, bốn lời cầu cho chúng con. Ba lời cầu đầu liên quan tới việc của chính Thiên Chúa nơi trần gian. Bốn lời sau liên quan tới những hy vọng, nhu cầu và những khó khăn của chúng ta. Quả thật hay, khi toàn bộ nội dung và thứ tự mong ước được gói trọn trong bảy lời cầu, và mỗi chữ đều mang một ý nghĩa sâu xa. Như thế, cấu trúc Lời Kinh Chúa Dạy chứa đựng một kho tàng, mà ý nghĩa chỉ được khám phá dần dần qua bao thế kỉ.
Quả vậy, Kinh Lạy Cha không phải là một bài diễn thuyết, một khảo luận khó hiểu, nhưng là một lời thưa chuyện đơn sơ của một người con dâng lên Cha của mình, mà trong đó chất chứa tất cả nỗi lòng, từ lời ca tụng, những ước nguyện, cho tới những ưu tư qua những lời khẩn nguyện chân thành nhất. Đó dường như là một điều vượt ngoài sức tưởng tượng của não trạng người Do Thái bấy giờ khi gọi Thiên Chúa là Cha.
Như thế, khi đến trần gian, Con Thiên Chúa Ngài không dạy các môn đệ cầu nguyện cách máy móc, rườm rà, nhiều lời ít ý: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ cứ nói nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7). Trái lại, Lời Kinh Chúa Dạy lại là một lời kinh rất thân thương với đối tượng cụ thể, gần gũi, cùng những lời nguyện xin rất thiết thực, đậm tình phụ tử. Quả thật, Kinh Lạy Cha không phải là một lời than thở hay chỉ là những lời cầu xin đơn thuần, nhưng bao gồm tất cả mọi tâm tình của một thụ tạo với Đấng Tạo Hóa và đặc biệt của một người con tâm sự với Cha của mình.
Trước hết, mở đầu kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su hướng chúng ta tới Đấng mà chúng ta phải cầu nguyện – Cha chúng con. Đó không phải một vị thần, một đấng xa lạ, mơ hồ, nhưng là Thiên Chúa, Cha của Chúa Giê-su, Đấng ngự trên trời và là Cha của chúng ta. Như thế, Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng, một bước nhảy, khi kéo con người lên gần Thiên Chúa. Quả thật, với quan niệm người Do Thái, và ngay cả với phần lớn con người ngày nay vẫn dễ dàng nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa là sự hiện hữu của một “Hữu thể tối cao” nào đó, dưới hình thái này hoặc hình thái khác rất xa với và uy nghiêm. Trái lại Thiên Chúa mà Đức Giê-su mạc khải, đặc biệt qua những lời cầu nguyện, mà tiêu biểu là Kinh Lạy Cha, không còn là một Đấng xa tít tắp, một Đấng đầy uy quyền và đáng sợ, nhưng là một người cha rất đáng yêu, gần gũi, luôn lắng nghe để con người có thể sẻ chia mọi mối ưu tư vui buồn sướng khổ. Quả vậy, Thiên Chúa là Cha chúng ta, vì Người tạo dựng nên chúng ta, nên chúng ta thuộc về Người… Không những thế, Đức Ki-tô là “hình ảnh Thiên Chúa” có một không hai (x. 2 Cr 4,4; Cl 1,15). Từ đó, các giáo phụ nói, khi tạo dựng cong người theo “hình ảnh mình”, Thiên Chúa đã nhìn trước nơi Đức Ki-tô và đã tạo ra con người theo hình ảnh của “Ađam mới”, nghĩa là theo hình ảnh con người mẫu mực đó. Nhưng nhất là: Đức Giê-su là “người Con” đúng nghĩa – cùng một bản thể với Chúa Cha. Người muốn đưa tất cả chúng ta vào trong bản chất người của Người và như vậy là vào trong tư cách làm con của Người, vào trong sự liên thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Tiếp đến, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện không đơn thuần là xin xỏ, cầu cạnh, hoặc chỉ là những lời than thở, nhưng trên hết phải là lời chúc tụng, diễn tả niềm vui của lòng biết ơn người Cha là Đấng ở trên trời, Đấng đã vì yêu thương mà dựng nên con người, vũ trụ vạn vật cũng như làm tất cả để cứu độ và cho con người được sống. Đồng thời, Con Thiên Chúa cũng hướng chúng ta tới mục đích và cũng là sứ mạng của Ngài khi đến trần gian, đó là làm cho Danh Cha cả sáng, Nước cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, nghĩa là thực hiện và hoàn tất kế hoạch yêu thương, cứu độ, dẫn đưa nhân loại vào trong tương quan với Thiên Chúa vốn đã bị đứt gãy do tội lỗi và sự chết. Đó cũng chính là sứ mạng mà Ngài trao lại cho Hội Thánh, mà trong đó có mỗi người chúng ta.
Cuối cùng, ở phần sau Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su hướng lời cầu nguyện của chúng ta về những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người đó là sự sống, cách cụ thể là của ăn. Hẳn nhiên, lời cầu nguyện đích thực không bao giờ là cầu nguyện cho sự giàu có hay thừa mứa, nhưng là một sự vừa đủ cho những nhu cầu hằng ngày và đó cũng chính là điều mà Chúa Giê-su dạy qua Kinh Lạy Cha về sự khó nghèo theo tinh thần Tin Mừng. Lời cầu nguyện thứ tư này xem ra “nhân bản” nhất trong tất cả lời cầu: Chúa hướng chúng ta vào những gì căn bản, những gì “tuyệt đối cần thiết”, nhưng Người cũng nhận biết và công nhận những nhu cầu trần thế của chúng ta… Cơm bánh là “hoa trái của đất và công lao của con người”. Nhưng đất sẽ không cho hoa trái, nếu nó thiếu nước mưa và ánh sáng mặt trời. Hai thứ này không ở trong tầm tay của chúng ta. Chúng là đối lực của cám dỗ kiêu căng khiến ta tin rằng, tự mình cũng có thể “vắt sỏi đá thành cơm”. Kiêu căng này dẫn tới bạo hành và vô cảm. Nó rốt cuộc phá nát trái đất. Đó chính là thực trạng đáng buồn mà con người vì thỏa mãn lòng tham, sự ích kỉ, đã và đang đối xử với trái đất và với nhau. Thế giới ngày nay, xét theo một phương diện nào đó, với não trạng hưởng thụ, qua nền văn hóa tiêu thụ và vứt bỏ đang từng ngày đẩy chính trái đất và nhân loại tới gần hơn ranh giới của sự hoang tàn đổ nát, thậm chí diệt vong, vì dường như họ quên rằng “mỗi chút cơm bánh, theo cách nào đó, đều là chút cơm bánh của mọi người, của thế giới”. Hơn nữa, đúng như Mahatma Gandhi đã nói:“Trái đất này đủ đáp ứng nhu cầu cho mọi người, nhưng không đủ để thỏa mãn lòng tham của một số người”.
Đồng thời, Kinh Lạy Cha cũng chất chứa tâm tình sám hối của một người con khi xin cha tha nợ, tha tội tha lỗi cho những xúc phạm, bất trung của đứa con hoang đàng. Lời cầu thứ năm đặt trên giả thiết về sự hiện diện của một thế giới tội lỗi. Lỗi của người đối với người, lỗi của người đối với Thiên Chúa. Vượt thắng tội lỗi là vấn đề trọng tâm của cuộc sống mỗi người. Đề tài tha thứ xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng… Nhưng Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta muốn được tha thứ, thì chính mỗi người phải tha thứ cho anh em trước vì “Những điều anh em muốn người khác làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta trước đã.”(x Mt 7,12). Và để làm được điều đó, chúng ta chắc chắn cần đến ơn Chúa để khỏi sa chước cám dỗ, cũng như khỏi mọi sự dữ, bởi kiếp nhân sinh và phận người vốn vẫn luôn bị bủa vây bởi bao cơn cám dỗ và vô vàn sự dữ, mà nếu không cầu nguyện, không cậy dựa vào Chúa, con người chúng ta thật khó có thể khỏi sa chước cám dỗ và như thế cũng chẳng thể học và thực thi bài học yêu thương và tha thứ như Chúa đã truyền dạy và nêu gương.
Tóm lại, Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện tuyệt hảo vì đó là Lời Kinh Chúa Dạy và “quả thật là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng”, đúng như lời thánh Augustino đã nói: “Bạn hãy rảo qua mọi lời cầu nguyện có trong các Sách Thánh, như tôi thiết nghĩ, bạn sẽ không thấy có điều gì mà Lời Kinh Chúa dạy lại không chứa đựng và bao gồm”. “Nhưng trong lời kinh đó, không những chúng ta cầu xiin những điều chúng ta có thể ước ao cách chính đáng, mà còn theo một trật tự những điều đáng ước ao nữa: như vậy lời kinh này không những dạy chúng ta cầu xin, mà còn huấn luyện toàn thể tâm tình của chúng ta” (Thánh Tô-ma Aquino).
2. Lời kinh Chúa sống
Chúa Giê-su không chỉ là mẫu gương cầu nguyện hoàn hảo nhất, như chúng ta thấy Ngài vẫn làm trong suốt cuộc đời, nhưng Ngài còn là người sống triệt để nhất lời cầu nguyện mà chính Ngài dạy các môn đệ, cũng như mỗi chúng ta. Suốt cuộc sống trần thế, Chúa Giê-su đã làm tất cả để làm cho Danh Cha cả sáng, Nước cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, cách cụ thể qua lời Ngài nói, việc Ngài làm và đỉnh cao là cái chết trên Thánh giá và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Quả thật, chính khi Ngài bị treo trên thập giá, lúc tưởng như Thiên Chúa thất bại, lại là lúc vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện rạng rỡ, Danh Chúa được cả sáng và ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời, nơi sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Trong Tin Mừng chúng ta thấy không ít lần Chúa Giê-su nhấn mạnh Ngài đến trần gian là để thi hành ý muốn của Chúa Cha, nghĩa là hiện thực hóa tất cả những lời nguyện mà chính Ngài đã dạy các môn đệ qua Kinh Lạy Cha…
Cũng vậy, trong suốt cuộc đời Chúa Giê-su đã sống nghèo, sống hiền và sống trọn bài giảng trên núi mà chính Ngài đã truyền dạy. Để rồi dù là Đấng vô tội, nhưng đã chấp nhận bước xuống để gánh lấy tội và chết vì tội của nhân loại. Nhưng khác với chúng ta, Chúa Giê-su đã không sa chước cám dỗ và không phạm tội, dù Ngài luôn phải đối diện và đối diện với những cuộc tấn công không ngừng của ma quỷ và thế gian.
Đồng thời, Chúa đã sống cách tuyệt hảo tình yêu vô vị lợi và sự tha thứ, để dạy chúng ta bài học về sự thứ tha: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì tình yêu, Chúa đã sống trọn vẹn kiếp nhân sinh trong tình yêu cháy bỏng dành cho con người, nhất là Chúa Giê-su luôn tha thứ, tha thứ đến tận cùng, Ngài tha ngay cả những kẻ chống đối, bắt bớ, đánh đập, sỉ nhục và giết chết Ngài. Không chỉ trong cuộc sống thường nhật, khi bị chống đối, bị phản bội, bị chối từ, hắt hủi, nhưng ngay cả khi bị treo trên Thập giá, khi cận kề với cái chết, thay vì nguyền rủa hay trả thù, Chúa đã tha thứ tất cả, ngay cả cho kẻ giết Ngài. Như thế, Chúa Giê-su đã sống trọn vẹn và hoàn hảo Kinh Lạy Cha đến hơi thở cuối cùng để rồi Ngài chiến thắng cái chết bằng sự Phục sinh của Ngài để mang lại ơn tha thứ, ơn cứu độ và sự sống muôn đời cho toàn thể nhân loại.
3. Lời kinh của Giáo hội
Lời Kinh Chúa dạy đã trở thành lời kinh cầu nguyện được biết đến rộng nhất và phổ biến nhất trong Ki-tô giáo. Nó diễn tả đúng trọng tâm mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và của sự nhận biết rằng chúng ta thuộc về Ngài. Lời kinh này khẳng định rằng chúng ta duy trì một mối tương quan cá vị với một Đấng Thánh, Đấng hiểu biết chúng ta và lắng nghe chúng ta, Đấng cưu mang và yêu thương chúng ta.
Được ủy thác kho tàng đức tin từ các tông đồ, Giáo hội thừa hưởng lời kinh duy nhất, đẹp nhất mà Chúa dạy và đặt lời kinh này làm nền tảng cho toàn bộ đời sống cầu nguyện của mình. Cụ thể, Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo trình bày đức tin Công Giáo xoay quanh bốn trục chính là Tuyên xưng đức tin, Cử hành mầu nhiệm Ki-tô giáo, sống mầu nhiệm Ki-tô giáo và Đời sống cầu nguyện. Trong đó, kinh Lạy Cha chính là nền tảng và trung tâm của phần thứ tư - Đời sống cầu nguyện. Như thế, Giáo hội khẳng định Kinh Lạy Cha là lời kinh tuyệt hảo nhất, vì Lời Kinh Chúa dạy mang nơi đó tất cả nguồn trợ lực Giáo hội cần để nuôi dưỡng đức tin của mình, cũng như để thực thi sứ mạng mà Chúa Giê-su đã trao phó trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiện hạ, mà loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
Theo đó, ngay từ đầu, Hội Thánh đã đón nhận và sống hồng ân không thể tách rời, gồm các lời của Chúa, và Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống cho các lời đó trong lòng các tín hữu. Trong mọi truyền thống phụng vụ, Lời Kinh Chúa dạy là thành phần không thể thiếu của các giờ kinh phụng vụ chính, đặc biệt là trong ba bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Cũng vậy, Lời Kinh Chúa dạy rõ ràng mang tính cách là lời kinh của toàn thể Giáo hội, với đầy đủ ý nghĩa và hiệu năng… một đàng gồm tóm mọi mọi lời cầu xin và chuyển cầu… và đàng khác gõ cửa Bàn tiệc Nước Trời…
Như thế, Giáo hội luôn tôn kính và dành chỗ đứng độc nhất cho Kinh Lạy Cha không chỉ trong Phụng vụ nơi Thánh Lễ, các Bí tích và các giờ kinh phụng vụ, nhưng trong mọi hoạt động của đời sống đức tin của mình. Nhờ đó, toàn thể Giáo hội dùng lời kinh này như lời cầu nguyện nền tảng và chính thức của toàn thể Hội Thánh để dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hóa con người. Vì thế, Giáo hội luôn ý thức mình luôn cần những lời kinh, đặc biệt là Kinh Lạy Cha, vì qua đó, cá nhân và toàn Giáo hội gặp gỡ được Chúa và nếu không có sự trợ giúp của lời kinh này, việc cầu nguyện của chúng ta và hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa sẽ trở nên chủ quan và rốt cuộc chúng phản ánh chính ta hơn là phản ảnh Thiên Chúa.
4. Lời kinh truyền giáo
Bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Vì thế, Giáo hội luôn kêu mời và thúc đẩy mọi tín hữu thực thi sứ mang loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Đồng thời, Giáo hội cũng kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện cho sứ mạng cao cả này. Trong đó, Kinh Lạy Cha chính là lời kinh truyền giáo vì nội dung của Lời Kinh Chúa dạy cũng chính là nội dung của việc truyền giáo mà trong đó chất chứa bản chất, phương thế và mục đích của sứ mạng này. Do đó, khi mọi tín hữu sốt sắng cầu nguyện cho việc truyền giáo bằng Kinh Lạy Cha, nhất là khi mỗi người ý thức để sống trọn vẹn Lời Kinh này trong đời sống, thì cũng chính lúc đó, mỗi người đang thực thi sứ mạng truyền giáo của mình cho con người mọi nơi mọi thời.
Quả thật, truyền giáo là gì nếu không phải là làm cho mọi người tin vào một Đấng ở trên Trời là Cha. Thế giới ngày nay chia rẽ, hận thù, xung đột và đầy bất an cũng vì chưa tin nhận một Cha trên Trời, nhưng xây dựng cho mình những “Idol”, những “Bò vàng”, hay những vị thần theo ý mình, thậm chí đó chỉ là những thần tiền, thần vật chất, để rồi không ngừng nhân danh “Thiên Chúa của mình” để tiếp tục gieo rắc sợ hãi và chết chóc cho nhân loại. Chính vì thế, sứ mạng truyền giáo chẳng còn ý nghĩa, nếu chính chúng ta, những nhà truyền giáo, thay vì nhân danh Thiên Chúa là Cha để gieo rắc, lan tỏa Tin Mừng, niềm hy vọng và sự sống cho con người, lại nhân danh chính mình để tiếp tục hằn sâu thêm những vết thương của hận thù và chia rẽ.
Cũng vậy, truyền giáo chẳng còn giá trị gì nếu mọi hoạt động của Giáo hội và mọi tín hữu không làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, nghĩa là tiếp tục mang ơn cứu độ đến tận cùng trái đất, để cho mọi người được sống trong bình an đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa, được hiện thực hóa qua cái chết và sự phục sinh của Đức Ki-tô. Theo đó, đã bao lần thay vì làm Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, thì chúng ta lại làm “danh chúng ta cả sáng” và “ý chúng ta thể hiện dưới đất cũng như trên trời” trong “nước mà chúng ta xây dựng bằng những tham vọng, những đam mê và tội lỗi”. Cũng vậy, thay vì tha thứ, chúng ta lại chẳng thể thứ tha, thậm chí còn gieo rắc sự chia rẽ, hận thù; thay vì xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, chúng ta lại thích sa chước cám dỗ; thay vì xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ, chúng ta lại thích sống chung với sự dữ và làm nô lệ cho nó, để rồi nhân loại vẫn còn đó bao chia rẽ, hận thù, đau khổ và chết chóc…
Không những thế, sẽ chẳng có một Giáo hội truyền giáo, nếu Giáo hội của Chúa là quá giàu có, phung phí và rủng rỉnh. Đọc lại lịch sử Giáo hội, chúng ta chắc hẳn có những giây phút quặn lòng bởi đã có những thời kì Giáo hội đã sống như thế. Tuy nhiên, nhìn vào quá khứ, qua những bài học đau thương ấy không phải để bi quan và thất vọng, trái lại để nhìn vào chính mình của ngày hôm nay, một thế giới của tiêu thụ, cử hưởn thụ cũng đang sẵn sàng nuốt chửng mỗi người chúng ta và cả Giáo hội. Từ đó, chúng ta ý thức rằng Giáo hội chỉ có thể thực thi sứ mạng truyền giáo đúng nghĩa khi Giáo hội sống nghèo, nghĩa là đủ “lương thực hằng ngày” và phục vụ người nghèo.
Cũng trong chiều hướng đó, Kinh Lạy Cha – Lời Kinh truyền giáo dạy chúng ta rằng Giáo hội làm sao có thể truyền giáo nếu mỗi thành phần trong Giáo hội không sống bài học tha thứ hay nuôi dưỡng, cổ võ sự hận thù; và cũng chẳng thể có một Giáo hội truyền giáo nếu Giáo hội đánh mất căn tính của mình, khi buông theo thói đời và sống hưởng thụ, vô luân… và nhất là để cho những thế lực của sự dữ gặm nhầm, đục khoét, thống trị và thao túng. Trái lại, Giáo hội chỉ thực hiện trọn hảo bản chất, căn tính của mình khi sống trọn vẹn Lời Kinh Chúa dạy như chính Chúa đã sống và nêu gương.
Như thế, nội dung của Kinh Lạy Cha chính là sứ mạng truyền giáo, là mục đích mà việc truyền giáo hướng tới. Theo chiều hướng đó, mang nơi mình sứ mạng truyền giáo, người tín hữu, cách riêng các nhà truyền giáo chỉ đủ sức chu toàn sứ mạng khi biết cầu nguyện và gắn bó cách đặc biệt với Lời Kinh Chúa dạy như nguồn trợ lực quý giá, và trên hết thực thi sứ mạng ngang qua việc sống và rao giảng về Lời Kinh tuyệt diệu này. Cũng vậy, trong vô số lời cầu nguyện, có lẽ Kinh Lạy Cha chính là nguồn sức mạnh thiết thực nhất đẩy bước người tín hữu dấn thân loan báo Tin Mừng cách trực tiếp bằng các cuộc ra đi, hay đơn sơ bằng chính đời sống chứng tá hoặc qua chính việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội trên khắp thế giới. Nói chung, sứ mạng cao cả ấy chỉ thành toàn khi mỗi người noi gương Thầy Chí Thánh, cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và nhất là sống trọn vẹn lời kinh này.
5. Lời kinh của chúng ta
Là người Công giáo, có lẽ không phải ai cũng biết cầu nguyện bằng kinh phụng vụ, Kinh Thánh, hay những lời cầu nguyện, những bản kinh phức tạp, thậm chí nhiều người chẳng còn tham dự Thánh Lễ, nhưng chắc chắn Kinh Lạy Cha là kinh mà có thể nói không người Công Giáo nào không biết, không thuộc vì đó là lời kinh của chúng ta. Thật vậy, ngay từ khi được Rửa tội, Kinh Lạy Cha đã được trao cho chúng ta và trong đời sống đức tin nơi gia đình, thì một trong những lời kinh đầu tiên mà chúng ta thuộc lòng chính là Kinh Lạy Cha. Quả thật, cũng như kinh Mân Côi, Lời Kinh Chúa dạy là lời thật đơn giản và dễ thuộc, dễ nhớ và dễ đọc nên đó luôn là lời kinh khởi đầu ngày sống, trước các bữa cơm, các cuộc hội họp hay suy niệm, cầu nguyện, trong các Thánh lễ, khi cử hành các Bí tích… Nói chung, trong mọi sinh hoạt và trong toàn bộ đời sống đức tin, Lời Kinh Chúa dạy luôn là nền tảng và được vang lên mọi nơi mọi lúc. Vì thế, thật khó có ai không biết đến, không nghe hay không thuộc lòng lời kinh tuyệt hảo này.
Tuy nhiên vì quá quen, quá thuộc, nên đôi khi hay nhiều lúc chúng ta quên mất thái độ cầu nguyện bằng lời kinh tuyệt hảo này, để rồi cảm thấy lời kinh đó chẳng còn gì hấp dẫn. Thực tế là nhiều lúc có lẽ chúng ta đọc và cầu nguyện như cái máy, miệng đọc mà tâm chẳng suy, cứ để những lời Chúa ngỏ trôi đi cách vô thức. Hơn nữa, nhiều người trong chúng ta lầm tưởng cầu nguyện chỉ là cầu xin, là cầu cạnh hay cầu may để rồi thay vì Lời Kinh Chúa dạy, chúng ta chạy theo, ưa chuộng những hình thức và những lời cầu nguyện rườm rà, bóng bảy… đôi khi chẳng mấy hữu ích, thậm chí sáo rỗng và sai lạc. Không những thế, vì lơ là hay coi thường, mà những lời dạy trong Kinh Lạy Cha cũng khó thấm vào đời sống bằng những hành động cụ thể của chúng ta, để rồi đôi khi hay nhiều lúc chúng ta đã lãng quên ơn gọi và sứ mạng của mình trong thế giới hôm nay…
Vì thế, khi ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa sâu sắc của Lời kinh Chúa dạy, người tín hữu không chỉ dừng lại việc đọc lời kinh tuyệt diệu ấy như cái máy để rồi thoáng qua một cách vô thức. Hẳn nhiên, Kinh Lạy Cha dạy chúng ta rằng, chúng ta có thể cầu xin nhiều điều. Trong tất cả mọi nhu cầu của chúng ta, chúng ta có thể cầu nguyện: “Xin giúp con!”. Điều này rất là con người, và Thiên Chúa cũng là con người; do đó, thật là chính đáng khi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa về tất cả những điều nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc cầu xin, chúng ta cũng cần biết biến thói quen thành hành động, can đảm làm chứng cho Chúa, khi sống triệt để Lời Kinh ấy, để Nước Cha trị đến như lời mời gọi của Chúa Giê-su khi khai mạc sứ vụ công khai “Thời kì đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Muốn thế, trong cuộc sống và trong các mối tương quan, chúng ta hãy học và thực hành bài học tha thứ, biết tránh xa dịp tội và cộng tác xây dựng hòa bình. Khi đó, mỗi chúng ta sẽ trở thành những ngọn đèn chiếu sáng lan tỏa và đem ơn cứu độ cho con người trong thế giới hôm nay.
Để tạm kết, người viết thiết tưởng chẳng có gì ý nghĩa hơn khi cùng đọc, cùng suy Lời Kinh tuyệt hảo mà Chúa dạy để cầu nguyện, cũng như để nhắc nhớ mỗi chúng ta can trường sống Lời Kinh Chúa dạy như một cách thiết thực để thi hành sứ mạng mà Chúa đã trao phó cho Giáo hội. Bởi vì chẳng có một lời nào đẹp hơn Lời Kinh Chúa dạy, cũng chẳng có ca từ nào ý nghĩa hơn Lời Kinh của Hội Thánh; và hẳn nhiên chẳng có lời kinh nào sống động hơn lời kinh truyền giáo; và cuối cùng, chẳng có lời kinh nào gần gũi, thân thương hơn lời kinh của chúng ta:
“Lạy cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”
C.f Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2744
Cf. Joseph Ratzinger, Đức Giêsu ở Nazareth, trọn bộ, Phạm Hồng Lam dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 167
Cf. Joseph Ratzinger, Thiên Chúa và trần thế, Phạm Hồng Lam dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 270
Cf. Joseph Ratzinger, Dẫn nhập Đức tin Kitô giáo, Nxb. Tôn giáo, tr. 201
Cf. Joseph Ratzinger, Đức Giêsu ở Nazareth, trọn bộ, Phạm Hồng Lam dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 171-172
Cf. Joseph Ratzinger, Đức Giêsu ở Nazareth, trọn bộ, Phạm Hồng Lam dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 185
Cf. Ibid., tr. 186. Thánh Gioan Chrisostomus nhấn mạnh khi diễn giải sự tức giận của tín hữu ở Cô-rin-tô.
Cf. Joseph Ratzinger, Đức Giêsu ở Nazareth, trọn bộ, Phạm Hồng Lam dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 192
C.f Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2761
Cf. Hồng y Walter Kasper, Lòng thương xót, cốt lõi của tin mừng, chìa khóa của đời sống ki-tô hữu, Nxb. Tôn giáo, tr. 140
Cf. Joseph Ratzinger, Đức Giêsu ở Nazareth, trọn bộ, Phạm Hồng Lam dịch, Nxb. Tôn Giáo, tr. 163-164
Cf. Thánh Công đồng Vaticano II, Sắc Lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội, số 2
C.f Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2769
Cf. Đức Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thiên Chúa luôn mới, Những suy tư về cuộc sống, tình yêu và tự do, NXB. Đồng Nai, tr. 143