Chiếc áo không làm nên thầy tu
Thứ bảy - 23/10/2021 04:44
4298
Câu tục ngữ “Chiếc áo không làm nên thầy tu” không phải là một câu tục ngữ xa lạ với mọi người, thậm chí chúng ta còn rất thường nghe nhắc đến nó, mà đúng thật trong thời đại ngày nay, người ta rất xem trọng những “chiếc áo”.
Trong xã hội bây giờ, người ta xem trọng vẻ bề ngoài hơn tất cả. Nhiều người bị cái hào nhoáng đánh bại, bị nó câu dẫn và dụ hoặc để biến bản thân thành nô lệ để rồi cuối cùng nhận ra, chúng ta dường như đã sống vì những điều hư ảo quá nhiều.
Dáng bên ngoài không đủ nhận định giá trị con người. Đó cũng chính là đại ý của câu tục ngữ “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Thật buồn cười, người khoác lên người bộ áo nâu giản dị đã chắc gì là một thầy tu “chính hiệu”?
Trang phục và tất cả những gì được mặc trên cơ thể con người đã trở thành một phần thiết yếu trong cuộc sống. Chúng ta gặp rất nhiều trong đời sống, đồng phục lớp, quần áo của y tá, quần áo bảo hộ … Trong sách Sáng thế kí ở chương 3 câu 7 nói về nguồn gốc của trang phục như sau: “sau khi con người phạm tội mắt họ được mở ra, và họ biết rằng họ trần truồng; và họ kết lá vả làm khố che thân”(St 3,7). Như vậy, con người chỉ bắt đầu che thân sau khi phạm tội. Phải chăng từ đó ông bà ta đã nhận định rằng: “Tốt khoe, xấu che” và “người đẹp vì lụa”. Theo tôi, tôi không hoàn toàn đồng ý và cũng không hoàn toàn phản bác câu nói này. Trong bài này, tôi sẽ biện luận cả phần đúng và phần chưa đúng của câu nói với một ước mong khơi dậy ý thức về tầm quan trọng của chiếc áo dòng, để từ đó tôi biết trân trọng và yêu mến chiếc áo dòng của mình hơn nữa.
Trước hết, tu trì là một ơn gọi như không đến từ Thiên Chúa và những người đi tu là để bước theo sát dấu chân Chúa Giêsu Kitô hơn qua việc khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm. Do đó, người tu sĩ tự bản chất được gọi là tu sĩ qua lời khấn khiết tịnh- nghèo khó- vâng phục, hay nói khác là sống theo lời khuyên của Tin Mừng, chứ không phải qua việc khoác lên mình chiếc áo dòng. Chẳng hạn như tập sinh trong hội dòng tôi, mặc dù cũng đã được mặc tu phục, nhưng chưa được gọi là tu sĩ. Do vậy, dù không mặc chiếc áo dòng, người tu sĩ vẫn là tu sĩ. Thực chất phần đông tu sĩ chỉ mặc áo dòng khi tham dự phụng vụ và các nghi thức hoặc dịp đặc biệt.
Nếu chỉ mặc áo dòng mới là thầy tu, thì những khi mặc thường phục họ không còn là tu sĩ sao? Hay một số dòng không có tu phục thì thế nào? Trong bộ Giáo Luật, không có chỗ nào bắt buộc mọi dòng tu phải có tu phục và mọi tu sĩ phải mặc áo dòng. Trong thực tế hiện nay có nhiều dòng tu cả nam lẫn nữ không có tu phục. Ví dụ: theo tôi biết như dòng Tên ở Việt Nam và một số dòng khác. Tôi tin tất cả những người thuộc hội dòng này và nhiều hội dòng khác không có tu phục vẫn là tu sĩ. Để làm rõ hơn điểm này, tôi xin lấy một vài ví dụ mà tôi nghe biết đã xảy ra trong nhiều năm qua tại Việt nam. Đó là một số người đã tự ý may hoặc làm cách nào đó sở hữu một chiếc áo dòng. Những người đó đã dùng chiếc áo dòng này để đi lừa đảo tiền bạc của rất nhiều người, trong số nạn nhân bị lừa đảo có cả các linh mục và các dòng tu. Ngay tại dòng Phanxicô Viện Tu của tôi, chúng tôi cũng đã từng bị một thanh niên mặc áo cổ côn giáo sĩ đến “thăm nhà dòng” và chúng tôi sau này mới vỡ lẽ ra anh này là người giả mạo. Năm ngoái, tôi đọc được trên mạng một bài phóng sự kể chuyện về một linh mục giả ở Đồng Nai. Những người này đã lạm dụng sự tín nhiệm và lòng mộ mến của mọi người để lừa đảo nhằm kiếm lợi. Trong thế giới hiện đại, chúng ta luôn nhìn vào những điều người khác thể hiện ra bên ngoài để đánh giá về họ, nhưng giá trị chân thực của một con người có phải nằm ở đó? Vẻ bề ngoài chỉ giống như lớp giấy bọc của một món quà, dù có đẹp và hoa mỹ tới mức nào cũng không thể thay thế được món quà và tâm ý của người tặng.
Tuy nhiên, theo tôi câu nói này cũng không đúng tại sao ư? Trong Giáo luật năm 1983 không qui định các dòng tu phải có tu phục, nhưng lại chỉ rõ tại điều 669 rằng “Tu sĩ mặc tu phục của hội dòng mình, theo như nguyên tắc và luật lệ, như là dấu chỉ của sự thánh hiến và là nhân chứng của sự nghèo khó”. Điều này đã được chính huấn quyền Giáo hội khẳng định. Tại số 18 của sắc lệnh Perfectae Caritatis, Giáo hội một lần nữa chỉ ra rằng “Tu phục là dấu chỉ bên ngoài của sự thánh hiến cho Thiên Chúa”. Quả thật, so với các loại thời trang thì chiếc áo dòng đơn giản nếu không nói là đơn điệu, và nhàm chán, nhất là với xã hội ngày hôm nay, một xã hội rất chú trọng về hình thức và ưa đánh giá con người dựa trên quần áo và tiền bạc hơn là đạo đức bên trong.
Điểm khác nữa là tu phục không phải chỉ là dấu chỉ giúp cho người tu sĩ ý thức về sự thánh hiến của mình, mà còn giúp cho những người khác nhận biết họ là ai. Bản thân tôi, khi mang tu phục, theo tâm lí tự nhiên từ lời nói hành động của mình, tôi cũng để ý hơn là khi tôi không mặc tu phục. Ít nhất tôi biết rằng, mọi người sẽ đánh giá hành động của tôi cách nghiêm túc hơn khi tôi xuất hiện với chiếc áo dòng. Hơn nữa, khi tôi nhìn thấy hoặc gặp gỡ một ai đó lần đầu, nếu họ mặc áo dòng hoặc đeo cổ côn giáo sĩ, ngay lập tức tôi sẽ ý thức và trân trọng họ vì bậc sống của họ. Ngay cả đối với những người không phải là Kitô hữu, họ cũng nhận biết người tu sĩ dễ dàng qua tu phục bên ngoài này. Tôi có một kinh nghiệm nhỏ minh họa cho ý kiến này. Đó là khi được dịp tôi chở cha bề trên Tu viện đi ăn tiệc tại một giáo xứ nọ. Vì cha bề trên là người ăn mặc bình dị nên đã không mặc áo dòng hay áo cổ côn, cho nên chẳng ai biết là cha, chỉ trừ cha xứ và một số người trong gia đình mà cha bề trên quen. Khi đến sân nhà thờ thì cha đứng ở đầu lán xe để đợi tôi cất xe, những người đến ăn tiệc cũng vào bãi gởi xe. Họ cứ tưởng cha là “anh coi xe” và nói với cha rằng: “Xe để đâu đây chú ?” Cha cũng vui vẻ trả lời: “Anh cứ đi thẳng vào trong sân”. Chúng ta không thể xác định tài đức của một người qua vẻ bên ngoài, cũng như không thể dùng đấu để đong đếm nước biển được. Liệu có phải khi không thể tự tin vào nội lực, người ta buộc phải gồng mình ở những lớp son diêm dúa và hào nhoáng bên ngoài?
Trong đời sống của người công giáo, tu phục cũng giúp cho công chúng nhận biết tu sĩ là người thuộc về Thiên Chúa. Thực vậy, trong xã hội có rất nhiều nhóm khác nhau. Từ xưa đến nay, để phân biệt nhóm này với nhóm kia, người ta đã thiết kế các mẫu đồng phục cho nhóm của mình. Nói rộng hơn trong phạm vi thế giới, mỗi quốc gia trong kho tàng văn hóa độc đáo của mình, bao giờ cũng có loại quốc phục riêng. Ví dụ: người Việt Nam có bộ áo dài; người Nhật bản có bộ áo kimono. Ngay trong 54 dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc có trang phục rất độc đáo mang bản sắc dân tộc của mình. Trong phạm vi nhỏ của các nhóm xã hội, từ học sinh, sinh viên, đến công nhân, kĩ sư, bác sĩ, cũng có đồng phục riêng. Tôi không nói tu phục cũng là một đồng phục như những đồng phục khác, nhưng theo một cách nào đó bên ngoài, tu phục giúp cho nhiều người, kể cả tu sĩ nhận biết chúng ta thuộc bậc sống nào và nhất là thuộc về cộng đoàn nào. Chẳng hạn, nhìn vào chiếc áo dòng và khăn lúp, người ta sẽ biết đó là người tu sĩ công giáo; khác biệt với người tu sĩ phật tử ở chỗ cạo trọc đầu dù họ cũng có tu phục. Hay nhìn vào một tu sĩ với chiếc áo dòng trắng và khăn lúp đen, tôi có thể nhận ra tu sĩ đó thuộc dòng Đaminh hay chiếc áo dòng xám-đen của nam tu sĩ cho tôi biết người đó thuộc về dòng Phanxicô. Nếu thế thì việc tôi mặc tu phục cũng là một dấu chỉ tôn vinh Đức Kitô, Đấng mà Thánh Têrêsa đã âu yếm gọi “Đấng Tình Quân”. Tôi, người tu sĩ được chọn gọi để theo sát Đức Kitô bằng việc khấn giữ ba lời khuyên phúc âm trong một cộng đoàn có tu phục. Tôi nên làm cho Ngài được vinh dự qua bộ tu phục mà chỉ qua đời sống khấn dòng tôi mới có được.
Tóm lại, mặc dù chiếc áo dòng không nói lên hết được tất cả bản chất của một tu sĩ, nhưng tôi xác tín đó là dấu chỉ bên ngoài rất đặc biệt của sự thánh hiến của người tu sĩ. Tu phục không chỉ là dấu chỉ tôn vinh Thiên Chúa mà còn nói lên sự từ bỏ để theo lối sống nghèo khó của Đức Kitô trên hành trình dâng hiến. Ngoài ra, tu phục còn là dấu chỉ nhắc tôi sống khiêm tốn khi ý thức con người tội lỗi của mình. Thực vậy, nếu như quần áo thuở ban đầu là vật dụng để che đi sự tội lỗi, thì chiếc áo dòng hằng ngày tôi khoác trên thân xác yếu hèn của mình là dấu chỉ nhắc nhở tôi về tình trạng tội lỗi của mình và kêu gọi sự ăn năn sám hối; đồng thời cũng kêu mời tôi không ngừng nài xin Thiên Chúa giúp tôi tránh khỏi dịp tội.
Tác giả: Dinh Luyen Vu, OFM Conv.