Thư gửi cha thánh Đaminh Vũ Đình Tước
Thứ bảy - 02/04/2016 11:36
2223
Cha kính mến,
Mỗi khi đọc lại những trang sử oai hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, chúng con rất cảm động trước gương tử đạo có một không hai của Cha: kể từ khi bị bắt cho đến lúc chịu chết vì danh Đức Kitô chỉ vọn vẹn trong vài tiếng đồng hồ. Bị đánh trọng thương nhưng Cha vẫn tiếp tục an ủi, khích lệ đoàn chiên giữ vững đức tin và không ngớt lời chúc tụng tạ ơn tha thiết để dâng chính mạng sống cho Đức Kitô. Cha đã sống những khoảnh khắc cuối cùng của đời linh mục như một Thánh lễ. Mừng sinh nhật trên Trời của Cha, chúng con xin được nhớ lại những chặng đường Cha đã đi qua vì Danh Chúa Kitô để bày tỏ lòng kính phục, yêu mến kính dâng lên Cha!
Sinh ra và lớn lên tại làng Trung Lao thuộc tỉnh Nam Định (1775), ngay từ thời niên thiếu Cha đã tỏ ra là người rất đạo đức, sốt sắng. Khi được làm linh mục, Cha hết lòng nhiệt tình lo việc truyền giáo và săn sóc phần rỗi các linh hồn. Trước lời mời gọi của thầy Chí Thánh "lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”(Lc 10,2), tâm hồn Cha khao khát cháy bỏng được rao giảng Danh Chúa trên cánh đồng truyền giáo. Thấy mình phù hợp và tha thiết với linh đạo Dòng Giảng Thuyết Đaminh, Cha xin nhập Dòng. Ngày 18 tháng 4 năm 1812 Cha được bề trên chấp thuận cho khấn ba lời khuyên Phúc Âm “khó nghèo, vâng phục, và khiết tình”. Ít lâu sau, Đức Cha Delgado Y bổ nhiệm Cha về coi sóc Giáo xứ Xương Điền thuộc địa phận Đông Đàng Ngoài nay là Giáo phận Bùi Chu, một Giáo xứ có gần 4 ngàn giáo dân. Với tư cách là cha Xứ, Cha dùng mọi thời giờ để săn sóc đời sống đạo của từng gia đình bổn đạo. Dù phải sống trong cảnh ẩn trốn nay đây mai đó vì lệnh cấm đạo, nhưng Cha vẫn chăm chỉ làm việc mục vụ, cử hành các bí tích, dọn những bài giảng, bài giáo lý dậy cho giáo dân hiểu biết sâu rộng hơn về đạo thánh Chúa. Sống giữa đoàn giáo hữu, Cha nêu gương đời sống cầu nguyện và tha thiết mời gọi họ đến với Chúa. Vì thế, nhiều lần Đức Cha đã ngỏ lời khen ngợi “Cha là một chủ chiên tốt lành”. Gia đình ông Đoài, làng Xương Điền, là người ngoan đạo hạnh phúc được ở với Cha trong một thời gian có kể lại rằng: “Cha Đa Minh Tước trú ẩn trong nhà tôi trong thời gian khá lâu cho nên chúng tôi đã được chứng kiến đời sống đạo đức thánh thiện sâu xa của cha. Cha thức suốt đêm để cầu nguyện và dâng lễ ngay từ sáng sớm. Trong lúc cha dâng lễ thì tôi ra vườn theo dõi canh chừng giúp Cha”.
Còn nhớ, năm 1838, khi lệnh bắt đạo của vua Minh Mạng mỗi ngày càng trở nên gay gắt tại các tỉnh thuộc giáo phận Đông và Trung. Quân lính xông xáo khám xét khắp nơi, Cha phải ẩn lánh trong nhà các tín hữu, nay nhà này mai nhà khác. Ban ngày thì Cha âm thầm ẩn trốn trong phòng kín đáo, ban đêm bí mật lén lút đi thi hành công tác mục vụ: giảng dạy giáo lý cho những người tân tòng, thăm viếng và an ủi những người già yếu, bệnh tật. Ông Nhiêu Thịnh xin cha cẩn thận vì sợ có nhiều kẻ dòm ngó, theo dõi. Nhưng cha nói là cứ phó thác cho Chúa. Chúa định sao thì cha sẵn lòng vâng theo. Điều Cha lo lắng không phải là mạng sống nhưng là làm thế nào để những người cho cha ẩn trú không phải phiền lụy vì Cha, nếu Cha bị bắt.
Nếu như Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai đã vì 33 đồng bạc mà bán Thầy cho các thượng tế Do Thái, thì trong vùng ấy cũng có một người tên Phan: tham tiền, chức tước. Y không những bỏ Đạo mà còn đi tố cáo, nộp Đức Cha Henares và Thầy Chiểu cho triều đình để được thưởng tiền và thăng quan. Đúng là“biển tham khó lấp đầy!” Có được địa vị ông ta lại muốn lập công nên đã cho người đi dò xét nơi các linh mục ẩn trú và tìm mọi cách để ngăn cản việc truyền giáo của các Ngài. Hắn cho người về làng Xương Điền theo dõi để tìm cách bắt Cha Tước.
Thế rồi, sáng ngày 2 tháng 4 năm 1839 khi Cha đang chuẩn bị dâng thánh lễ tại nhà ông Nhiêu Thịnh thì một nhóm chừng 40 người do tên Phan cầm đầu, xông vào bắt Cha. Thấy bị động Cha liền mau lẹ cởi áo lễ, chạy ra vườn ẩn trốn. Nhưng có người nhận ra Cha nên chặn lại. Thấy vậy, Cha liền hỏi:“ Các anh đi tìm ai? Họ nói: “Tìm bắt linh mục Tước. Cha điềm đạm trả lời: “Chính tôi là linh mục Tước đây!” Thế là đoàn người xông vào bắt trói cha và áp giải về Cẩm Hà, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Đinh. Biết tin Cha bị bắt, giáo dân xứ Xương Điền chạy theo, cố gắng dùng tiền để chuộc, nhưng không kết quả. Vì thế họ đã tìm cách giải thoát Cha khỏi tay bọn lính. Họ sợ rằng tin cha bị bắt được loan đi các nơi, sẽ làm cho nhiều tín hữu hoang mang lo sợ và bỏ đạo. Đàng khác, theo phong tục lúc bấy giờ đàn bà không có vũ khí mà đánh nhau với lính thì vô tội và lính không được dùng vũ khí để đàn áp đàn bà. Do đó, họ đã cử một số phụ nữ đi trước để tấn công bọn lính, còn đàn ông đi sau để yểm trợ và cản đường bọn lính một khi giải thoát được Cha. Trước tình thế ấy, bọn lính nhất quyết áp giải Cha và khi cùng đường, tên đội trưởng ra lệnh cho tên Ngọc đánh đập Cha tàn nhẫn, bổ trên đầu Cha một nhát búa, khiến Cha ngã gục ngay trong vũng máu. Sau đó bọn lính xô nhau chạy thoát thân. Các tín hữu lúc ấy vừa chạy tới, một số chạy rượt bọn lính, một số ở lại săn sóc Cha. Nhưng vì nhát búa oan nghiệt qúa đau đớn, Cha biết mình không thể sống được nữa nên âu yếm nhìn đoàn con và nói đôi lời an ủi, khuyên đoàn con giữ vững Đức Tin, rồi Cha. thều thào kêu: “Giêsu Maria Giuse!” rồi nhắm mắt lại, trút hơi thở cuối cùng trong tay Chúa ngay chính ngày hôm ấy, lúc ấy Cha vừa tròn 64 tuổi. Thật là đẹp! 25 năm thi hành sứ vụ tông đồ trong chức linh mục của Cha khép lại bằng cuộc tử đạo họa lại chính cuộc tử đạo của Thầy Chí Thánh Giêsu. Giáo dân tin rằng Cha đã được phúc tử vì Đạo nên đã tranh nhau thấm máu của Cha, đào cả đất và lấy cả cỏ đã thấm máu của Cha đưa về làm kỷ niệm và cầu nguyện. Thi hài Cha được chôn ngay chỗ Cha bị đánh chết. Sau một thời gian thì giáo dân cải táng đưa về cử hành lễ an táng cách long trọng tại nhà thờ Họ thuộc xứ Xương Điền. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn Ngài lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn vinh Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Kính thưa Cha!
Hành trình tử đạo của Cha năm xưa cũng vẫn là một lời mời gọi cho chúng con hôm nay. Dù người Kitô hữu không còn bị bách hại nhiều bởi gông cùm, bắt bớ, tù đầy, xử tử; nhưng bị bách hại rất bởi các chủ thuyết: “chủ nghĩa tự do, cá nhân, hưởng thụ…” và sự dửng dưng tôn giáo đáng sợ! Sức công phá của nó rất mạnh và tinh vi: làm cho căn tính của người Ki-tô hữu bị “xói mòn”, “pha loãng”. Đặc biệt, tình trạng “sa mạc hóa thiêng liêng” cùng với lối sống đức tin “hời hợt, nửa vời, thời vụ” và “não trạng thất bại”, “ngại dấn thân”… đang phá hủy dần sức sống của đức tin Kitô. Cuộc sống của người Kitô hữu ngày trở nên “nghèo nàn”, “khép kín” và thiếu đi niềm vui, niềm hy vọng... Trước thách đố như thế, ước gì nhờ gướng sống và lời chuyển cầu của Cha, chúng con sẽ nhận được sức mạnh, có được tình yêu, sự hứng khởi để can đảm nói cho mọi người “tôi là Kitô hữu”
Kính gửi Cha….
Theophilo