“Con người là một “thực thể kì lạ-phân đôi và có hai mặt, có bộ mặt của Chúa và bộ mặt của nô lệ, thực thể tự do và thực thể nô lệ, mạnh và yếu, hợp nhất sự cao cả với sự hèn mọn, sự vĩnh hằng và sự nhất thời ở trong một tồn tại,”[1] nên có lẽ “thật không tốt khi có quá nhiều tự do. Thật không tốt khi có mọi thứ mình muốn.”[2] Bởi vì, với sự tự do đã bị tổn thương bởi tội, con người luôn bị giằng co, vò xé trong tư tưởng, lời nói cho tới hành vi để đưa ra sự quyết định, chọn lựa giữa hai thực tại thiện và ác, làm hay không làm, tự do hay nô lệ… Thật kì lạ khi ngay trong con người, luôn tồn tại hai thái cực, một mặt khắc khoải, nhưng một mặt lại bất lực và buông xuôi. Để rồi, từ những khắc khoải khôn nguôi ấy, bên cạnh việc con người tiếp tục làm tất cả để có một cuộc sống thật sung túc và có thể duy trì sự hiện hữu thật lâu ở đời này, con người vẫn còn đó niềm tin vào một sự sống sau cái chết với linh hồn bất tử và hạnh phúc viên mãn.
1. Con người, một huyền nhiệm
Tuy nhiên, dù tin hay không tin sự sống đời sau, con người vẫn luôn là một huyền nhiệm[3], một sinh vật phức tạp nhất, một sinh vậy ham muốn quyền lực nhất, một sinh vật biết yêu thương nhưng cũng là một sinh vật độc ác nhất, một hữu thể đáng yêu nhất nhưng lại cũng là một sinh vật đáng ghét nhất và đáng thương nhất… Để rồi từ những nghịch lý nơi chính mình, mỗi giây phút con người hiện hữu trên cuộc đời này là một cuộc trở về hay cuộc đi lên vẫn là một cái gì đó dày vò con người, khiến con người không ngừng chất vấn chính mình. Con người là một sinh vật yêu thương, muốn được yêu và biết yêu thương. Đó là điều không ai có thể phủ nhận và được diễn tả cách tuyệt vời trong lịch sử hiện hữu của mình cũng như trong mọi phương diện của đời sống hằng ngày với Thượng đế, với thế giới và đồng loại.
Có lẽ không ít lần trong cuộc đời, chúng ta, dù là những người đã tin và chân nhận Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, đã và đang bước theo Ngài, thậm chí còn dạy người khác, đào tạo người khác thành những chứng nhân về Tin Mừng Cứu Độ, lại đã, đang hoặc sẽ trở thành kẻ vô cảm, độc ác tinh tế nhất, dửng dưng đến lạnh lùng trước những đau khổ, thiếu thốn của người khác... Cũng vậy, nhiều lúc, những người được coi là tông đồ và chứng nhân của Chúa, lại chỉ thích nói về sự bao dung, thích dạy về sự tha thứ, thích yêu cầu người này, kẻ nọ phải sống yêu thương, nhưng lại chẳng làm và sống tha thứ, bao dung như những gì chúng ta rao giảng. Hơn nữa, đôi khi, chúng ta còn thích làm tâm điểm của sự chú ý, muốn trở thành mạch truyền cảm hứng. Nhưng than ôi! đến khi cần sống bao dung, cần sự độ lượng, thứ tha và cần tình yêu thương chia sẻ, thì chúng ta lại chẳng còn một chút bao dung nào để trao ban. Thay vào đó, thậm chí là sự độc ác đến lạnh người, sự vô tâm đến khó tin và một sự vô cảm đến đang thương trước nỗi đau của đồng loại. Những khi đó, chúng ta chỉ là những thanh là phèng phèng (1Cr 13,1), những thùng rỗng kêu to, khiến hình ảnh của Đức Ki-tô và Giáo hội bị biến dạng và méo mó đến thê thảm…
Dù bên cạnh bao tâm hồn đặt trọn niềm tin vào linh hồn bất tử và cuộc sống mai hậu, thì với sự bất lực và mỏng manh của kiếp nhân sinh, vẫn còn đó những con người nhìn nhận hữu thể người, cũng như vũ trụ thiên nhiên và Thượng đế với những tư tưởng bi quan, yếm thế, coi cuộc sống đơn thuần và chỉ là đi về với cái chết, để rồi chết là hết… Dẫu vậy, đó chỉ là một phần nhỏ của thế giới con người đầy phức tạp, cũng như chỉ là những hạt sạn trong đời sống Giáo hội và thế giới. Trong một bức tranh vẫn còn đó những vùng sáng tuyệt vời, nơi vẫn tràn ngập tình yêu diệu kì của Thiên Chúa. Bởi vì bên cạnh một số ít vô cảm, vẫn còn đó bao tâm hồn đầy bao dung, đầy yêu thương và tha thứ, vẫn tiếp tục và bền bỉ giang rộng bàn tay và mở rộng trái tim để yêu thương và chia sẻ niềm tin cũng như những cử chỉ tuyệt vời đến mọi người. Nhờ đó, con người vẫn là sinh vật đáng yêu nhất và tràn ngập khát vọng hòa bình cũng khát vọng sống mãnh liệt nhất. Cụ thể, khi ngày càng nhận thức sự “già đi” vì sự ô nhiễm lan tràn của vũ trụ thiên nhiên, con người đang ngày càng nỗ lực để bảo vệ và tái thiết môi trường bằng những hành động cụ thể nơi các quốc gia, tổ chức quốc tế, tổ chức tôn giáo cho đến từng cá nhân, hầu mong gìn giữ hơi thở cho trái đất cũng như cho chính mình. Theo đó, con người đã dần ý thức vì một thế giới xanh, sạch, đẹp, một cuộc sống tốt đẹp hơn. Để được như thế, mỗi người hãy cùng nhau hành động ngay từ những việc nhỏ nhặt nhất và hành động mọi lúc mọi nơi.[4]
3. Con người – một sinh vật độc ác đến kì lạ
Thật nghịch lý, khi nhìn vào cách con người hiện hữu và đối xử với nhau và với thế giới, chính con người lại giật mình nhận ra thân phận đáng thương và đáng sợ của mình, bởi sự độc ác đến khó hiểu của con người. Thật vậy, có lẽ trong những loài độc ác nhất và hung dữ nhất, nếu có một bảng xếp hạng, thì chắc chắn cái tên đứng đầu bảng xếp hạng đó không phải loài nào khác, mà là chính con người. Quan sát thế giới tự nhiên, dù vẫn còn đó bao bí ẩn, nhưng dường như những động vật chiến đấu và tàn sát nhau đều có nguyên nhân liên quan đến sự sống còn, có thể vì nhu cầu về lãnh thổ, về thức ăn hay về tình ái hoặc một số lý do nào đó cụ thể và có thể hiểu được. Thế nhưng, với con người thì hoàn toàn khác, con người có thể xung đột và tàn sát nhau bất kể lý do, thậm chí chẳng cần lý do… hiền cũng giết, ác cũng giết, tốt cũng giết, mạnh cũng giết, yếu cũng giết... Dường như sự kiêu ngạo đã khiến con người trở nên mất phương hướng, mất sự hòa hợp với tất cả, để rồi từ sự trần trụi của mình, sự xấu hổ lại khiến con người trở nên những kẻ đáng sợ hơn, dùng tất cả mọi thủ đoạn để che giấu đi sự xấu hổ đáng thương của mình, mà bằng chứng cụ thể là sự tàn phá thiên nhiên, tiêu diệt các loài thụ tọa và hủy diệt chính đồng lọa của mình bằng chiến tranh, bạo lực cùng bao thứ ghê rợn khác.
Đọc lại lịch sử hiện hữu của con người, qua những di chỉ và những tài liệu ít ỏi về khảo cổ, chúng ta không khỏi sởn gai ốc khi thấy con người chính là những có khả năng kẻ sáng tạo ra những hình phạt và những cách thức giết người ghê rợn nhất, tàn ác nhất, không chỉ giết một hay một số người mà hàng loạt, hạng triệu người... Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người tưởng như sẽ trở nên nhân bản hơn để cùng nhau tìm cách kìm hãm cơn khát máu của mình. Thế nhưng, con người lại càng nghĩ ra những trò tiêu khiển đáng sợ để làm khổ nhau. Họ sẵn sàng giết người trên diện rộng để gieo rắc chết chóc trên toàn cầu, khiến sự sợ hãi tràn ngập thế giới, kéo theo những đau đớn về cả tinh thần lẫn thể xác không ngừng tăng theo cấp số nhân. Thật không thể tin những thứ vũ khí có khả năng giết người hàng loạt có thể được con người sử dụng một cách vô tư để hành hạ và hủy hoại thiên nhiên và đồng loại; thật không thể không giật mình khi nhìn thấy một nhóm người vì quyền lợi hay ý thức hệ và tôn giáo của mình lại trở thành những kẻ khát máu bất chấp sự sống của nhiều người. Để rồi, hậu quả thật bi đát là con người ngày càng phải chịu nhiều hơn những cái chết thật đáng sợ và tiềm ẩn mỗi ngày.
Nói chung, dường như con người mang nơi mình một bản năng khát quyền lực và giết chóc. Con người sẵn sàng dùng quyền lực không chỉ để tiêu diệt các loài khác và thụ tạo khác để phục vụ cho nhu cầu nhiều khi thật thấp hèn của mình. Tệ hơn và ghê rợn hơn, biết bao lần trong lịch sử, con người dùng quyền lực để gây đau khổ, thậm chí tàn sát chính đồng loại bằng nhiều hình thức đến khó hiểu. Nếu các thú vật chỉ hạn chế trong các phương pháp để tranh đấu hay tiêu diệt nhau, thì con người lại trở thành một sinh vật tàn nhẫn một cách tinh vi nhất, đa dạng nhất, phức tạp nhất, nhưng cũng đáng sợ nhất. Con người nghĩ ra đủ cách, đủ mọi pương pháp để hành hạ nhau, để làm khổ nhau, để tàn phá thiên nhiên và để tiêu diệt mọi thứ. Từ những phong cách đáng sợ nhất đến những phương pháp tưởng chừng nhẹ nhàng nhất, nhưng chất chứa nơi đó là những thủ đoạn và những hình phạt man rợ nhất, đôi khi xen lẫn cả những tiếng cười khả ổ, thỏa mãn, bệnh hoạn trước cái chết của chính đồng loại…
Như thế, con người xứng đáng đứng đầu bảng xếp hạng của sự độc ác. Nhờ trí khôn nhưng là một trí khôn đã bị tổ thương, con người độc ác nhất bởi sự tinh vi và khôn lường trên vũ trụ này. Chính con người vừa là nạn nhân nhưng cũng chính là thủ phạm gây ra sự tàn phá và chết chóc kinh hoàng nhất, với một dã tâm khát máu và vô cảm nhất.
3. Gieo mầm hy vọng
Thế nhưng, vì là một hữu thể phân đôi đến kì lạ, nên dù thế nào, dù tàn nhẫn ra sao, thế giới này và nhân loại này vẫn còn tồn tại và phát triển nhờ vẫn còn sót lại nơi hữu thể phức tạp nhất mang tên con người một chữ yêu và mầm thiện. Bên cạnh sự độc ác và tàn nhẫn của một số người, vẫn còn đó lòng bao dung sự tha thứ và tình yêu của bao tâm hồn vẫn thường tồn nơi mình niềm khao khát được sống hòa bình và hạnh phúc vời nhau và cùng nhau trên thế giới này. Chính nhờ tình yêu, dù chỉ như những đốm lửa ấy, mà nhân loại vẫn tiếp tục nhen nhúm liều thuốc tình yêu và sự bao dung để chữa lành và hàn gắn những tương quan đã và đang bị tổn thương. Nhờ đó, mà ngày cánh chung vẫn mãi là một bí ẩn và một điều gì đó thể hiện lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Đấng vốn vì yêu và có lẽ chỉ cần còn tình yêu trên trái đất, Ngài sẽ không lỡ xuống tay với con người. Cộng tác vào kế hoạc yêu thương của Thiên Chúa như những cánh tay nối dài và những trợ tá đắc lực, vẫn còn đó bao tâm hồn nhiệt huyết, dù âm thầm hay công khai, vẫn đang tiếp tục sứ mạng gieo rắc và lan thỏa tình yêu bằng chính đôi tay, khối óc và cả trái tim của mình để phục vụ thế giới và nhân loại. Tron thế giới vẫn còn đó bao người vẫn bền bỉ chung tay để vun trồng cây sự sống và tưới bón bằng chính những gương lành, cùng những công việc bác ái yêu thương, để mầm thiện trong tâm hồn nhân loại được trổ sinh và tiếp tục tỏa sáng để đẩy lui bóng tối của sự chết và tội lỗi đang tàn phá thế giới và con người trong thế giới hôm nay.
Thật vậy, đứng trước một thực tại đầy phức tạp là con người và trong một thế giới tràn ngập bí ẩn và đầy xung khắc, Giáo hội vẫn mang nơi mình một sứ mạng là nên sứ giả của sự sống, Giáo hội luôn ý thức vai trò của mình trong việc gìn giữ ngọn lửa tình yêu mà Thiên Chúa đã trao tặng cho con người, nhất là nơi Con Một của Ngài. Nhờ đó, Giáo hội vẫn miệt mài thực thi sứ vụ tặng ban yêu thương, lan tỏa lòng thương xót đến cho con người trong thế giới hôm nay. Giáo hội qua Kinh Thánh và Giáo huấn của mình luôn nhìn nhận “việc đánh mất tương quan với Thiên Chúa và mất cảm thức về tình anh em phổ quát đã góp phần tạo nên cảm giác bị cô lập và lo lắng về tương lai… Tuy nhiên, trái tim của Ki-tô giáo là tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi dân tộc và lòng mến của chúng ta cho người thân cận, nhất là những người gặp thiếu thốn…”[5]
Do đó, với xác tín “nơi nào có nguy hiểm, nơi đó cũng trổ sinh nguồn năng lượng cứu rỗi”[6], giữa một thế giới đầy nhiễu nhương, Giáo hội vẫn trở nên nguồn sống cho thế giới trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng “là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga, 14,6). Nhờ đó, Giáo hội luôn kêu mời mọi thành phần ý thức trách nhiệm và bổn phận của mình trong sứ mạng bảo vệ sự sống và lan tỏa tình yêu. Cụ thể, mỗi người tiếp tục thực hiện việc “đùm bọc những phận người sống bên rìa xã hôi là mở rộng chân trời mới của chính chúng ta, bởi khi đó, ta sẽ có cái nhìn rộng mở hơn và rõ hơn từ mọi khía cạnh xã hội”[7] và nhờ đó mà những công việc của chúng ta cho Chúa và Giáo hội sẽ tiếp tục sinh hoa trái cũng như gớp phần làm cho thế giời và nhân loại mỗi ngày một bình an và nhân bản hơn…
Để làm được điều đó, chính Đức thánh cha Phan-xi-cô đã nhấn mạnh: “điều quan trọng là phải phục hồi chiều kích chiêm ngắm, nghĩa là nhìn trái đất, thiên nhiên như một món quà chứ không phải là thứ để khai thác vì lợi ích của tôi. Khi chúng ta chiêm ngắm, chúng ta khám phá ra nơi người khác và trong tự nhiên một điều gì đó lớn hơn nhiều so với tính hữu ích của họ.” Vì với ngài “những ai đi theo con đường chiêm ngắm và chăm sóc thiên nhiên sẽ trở thành “người bảo vệ” của ngôi nhà chung, người bảo vệ của sự sống và hy vọng” Và cuối cùng ngài kêu gọi “chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên là nhiệm vụ của mỗi con người. Mỗi người chúng ta có thể và phải trở thành một “người bảo vệ ngôi nhà chung”, có khả năng ca ngợi Thiên Chúa về các tạo vật của Người, có khả năng chiêm ngưỡng và bảo vệ chúng.”[8]
Cùng với đó, con người cũng luôn nỗ lực cộng tác để bảo vệ sự sống bằng những hành động cụ thể mà Giáo hội chính là ngọn cờ đầu trong lĩnh vực này. Thật vậy, Theo quan điểm của Giáo hội thì quyền sống là quyền cơ bản, tự nhiên của con người.“Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện.” (Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICCPR).[9] Theo đó, Giáo hội luôn quan tâm và nhấn mạnh nhiệm vụ và sứ mạng của mình trong việc bảo vệ sự sống, nhất là của các thai nhi bằng những hành động cụ thể và đầy nhân văn, hầu góp một tiếng nói nhân đạo và tình yêu để giúp nhân loại bớt đi việc tàn sát, và giết hại, nhất là các thai nhi vô tội.
Mặc dù mọi nỗ lực của Giáo hội cũng như nhiều cố gắng của con người vẫn đang tiếp tục được thực hiện để gìn giữ hòa bình thế giới cũng như để phục vụ cho sự sống mong manh của con người trên thế giới này. Nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới tất yếu có ngày cùng tận, một thế giới mà “sự say mê cuồng nhiệt với cuộc sống mà chúng ta nhìn thấy trên mọi lục địa ngày nay đã phát sinh một nền phản-văn hóa của sự chết, điều này càng trở thánh diện mạo chung của chúng ta… Không có một yếu tố miễn dịch cho linh hồn. Lý trí thực chứng không cung cấp cho cơ cấu linh hồn một sức mạnh về miễn nhiễm về luân lý; nó còn là sự phá hủy đối với hệ thống miễn dịch của linh hồn. Và do đó, dẫn tới việc đầu hàng cách bất lực đối với những lời hứa giả dối của cái chết xuất hiện trong vỏ bọc đời sống sung mãn…”[10] Vì thế, dưới cái nhìn của Ki-tô giáo, việc phục vụ sự sống không chỉ dừng lại cuộc sống chóng qua đời này, nhưng còn hướng tới một viễn cảnh cánh chung, nơi sự sống đích thực được ban cho con người, trong một Trời mới đất mới, nơi con người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong sự sống và hạnh phúc muôn đời. Để đạt được hạnh phúc đó, con người vẫn phải chấp nhận và bước qua ngưỡng cửa cuối cùng là sự chết. Tuy nhiên, không phải với sự bi quan, cái nhìn của Giáo hội về sự chết dưới sự soi sáng của Lời Chúa là một mầu nhiệm mà nhờ đó và qua đó, con người mới có thể đi vào trong sự phục sinh trọn vẹn cùng với Đức Giê-su Ki-tô.
Cf. N. Berdyaevev, Mục đích của Sáng tạo, Nxb Tri Thức, tr. 57
Cf. Blaise Pascal, Suy Tưởng, Nxb Khoa Học Xã Hội, tr. 148
Cf. https://trungtamytequan11.medinet.gov.vn/suc-khoe-cho-moi-nguoi/bao-ve-moi-truong-cung-chinh-la-bao-ve-su-song-cua-chung-ta-c16195-66839.aspx
Cf. Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, hãy cùng ước nơ, Nxb Thế giới, Ysof dịch, tr. 165
Cf. https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-09/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-laudato-si-thien-nhien-trai-dat.html
Cf. https://www.tonggiaophanhanoi.org/bai-tham-luan-bao-ve-va-song-dung-pham-gia-con-nguoi/
Cf. Joseph Ratzinger, Tuyển tập Ratzinger, Lieven Boeve và Gerard Mannion biên soạn, Nxb. Tôn Giáo, Cao Viết Huấn, CM dịch, tr. 146