Tuyên bố
“Dignitas Infinita”
về Phẩm Giá Con Người
Tuyên bố của Bộ Giáo lý Đức tin
Ban hành ngày 08.04.2024.
Bản dịch của Giuse Vũ Đức Trung, CSsR
Trình bày
Trong Đại hội ngày 15 tháng 3 năm 2019, Thánh Bộ Giáo lý Đức tin khi đó đã quyết định bắt đầu “soạn thảo một văn bản nêu bật tính chất không thể thiếu của phẩm giá con người trong nhân học Kitô giáo và minh họa tầm quan trọng và các hàm ý hữu ích của khái niệm này trong các lĩnh vực xã hội, chính trị và kinh tế - đồng thời cũng tính đến những phát triển mới nhất về chủ đề này trong giới học thuật và những cách hiểu không nhất quán về khái niệm này trong bối cảnh ngày nay". Một bản thảo đầu tiên của văn bản đã được chuẩn bị với sự giúp đỡ của một số chuyên gia vào năm 2019, nhưng một cuộc Tham vấn Consulta Ristretta của Thánh Bộ, được triệu tập vào ngày 8 tháng 10 cùng năm, cho rằng bản thảo này không đạt yêu cầu.
Sau đó, Văn phòng Giáo lý đã chuẩn bị thêm một dự thảo mới, dựa trên sự đóng góp của nhiều chuyên gia khác nhau, đã được trình bày và thảo luận trong một cuộc Tham Vấn Consulta Ristretta được tổ chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2021. Vào tháng 1 năm 2022, dự thảo mới đã được trình bày trong Phiên họp toàn thể của Thánh bộ, trong đó các Thành viên đã thực hiện các bước để rút ngắn và đơn giản hóa văn bản.
Sau đó, vào ngày 6 tháng 2 năm 2023, phiên bản sửa đổi của dự thảo mới đã được một Ủy Ban Tham Vấn xem xét, cơ quan này đã đề xuất một số sửa đổi bổ sung. Một phiên bản cập nhật đã được đệ trình để các Thành viên xem xét trong Phiên họp thường vụ của Thánh Bộ (Feria IV) vào ngày 3 tháng 5 năm 2023, tại đó các Thành viên đã đồng ý rằng tài liệu, với một số điều chỉnh, có thể được xuất bản. Sau đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê duyệt các nghị quyết của phiên họp đó trong Cuộc Tiếp Kiến dành cho tôi vào ngày 13 tháng 11 năm 2023. Nhân dịp này, ngài cũng yêu cầu tài liệu nêu bật các chủ đề liên quan chặt chẽ đến chủ đề phẩm giá, chẳng hạn như nghèo đói, tình trạng của người di cư, bạo lực đối với phụ nữ, nạn buôn người, chiến tranh và các chủ đề khác. Để thực hiện những chỉ dẫn của Đức Thánh Cha, Ban Giáo lý của Thánh Bộ đã dành một Congresso để nghiên cứu chuyên sâu về Thông điệp Fratelli Tutti, trong đó đưa ra một phân tích độc đáo và xem xét thêm về chủ đề phẩm giá con người “vượt trên mọi hoàn cảnh.”
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2024, một phiên bản mới và được sửa đổi đáng kể của văn bản này đã được gửi đến các Thành viên của Thánh Bộ trước Phiên họp thường vụ (Feria IV) vào ngày 28 tháng 2 năm 2024. Bức thư đi kèm dự thảo bao gồm nội dung làm rõ sau đây: “Bản thảo bổ sung này là cần thiết để đáp ứng một yêu cầu cụ thể của Đức Thánh Cha: cụ thể, ngài đã kêu gọi rõ ràng rằng hãy chú ý nhiều hơn đến những vi phạm nghiêm trọng phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, đặc biệt là dưới ánh sáng của Thông điệp Fratelli Tutti. Với điều này, Văn phòng Giáo lý đã thực hiện các bước để giảm phần ban đầu […] và phát triển chi tiết hơn những gì Đức Thánh Cha đã chỉ ra. ” Bản văn của Tuyên ngôn hiện tại cuối cùng đã được phê duyệt trong phiên họp Feria IV nêu trên vào ngày 28 tháng 2 năm 2024. Sau đó, trong buổi Tiếp kiến dành cho tôi và cho Đức Ông Armando Matteo, Bí thư Ban Giáo lý, vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, Đức Thánh Cha đã chấp thuận Tuyên ngôn này và ra lệnh cho công bố.
Quá trình chuẩn bị văn bản kéo dài 5 năm giúp chúng ta hiểu rằng tài liệu trước mắt phản ánh tầm quan trọng và tính trung tâm của chủ đề phẩm giá trong tư tưởng Kitô giáo. Văn bản đòi hỏi một quá trình trưởng thành đáng kể để đi đến phiên bản cuối cùng mà chúng tôi xuất bản hôm nay.
Trong ba phần đầu tiên, Tuyên bố nhắc lại các nguyên tắc cơ bản và các tiền đề lý thuyết, với mục tiêu đưa ra những làm rõ quan trọng có thể giúp tránh sự nhầm lẫn thường xuyên xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “phẩm giá”. Phần thứ tư trình bày một số tình huống hiện tại và có vấn đề, trong đó phẩm giá vô cùng cao quý và bất khả xâm phạm đối với mọi người không được công nhận đầy đủ. Giáo Hội coi việc lên án những vi phạm nghiêm trọng và hiện tại đối với phẩm giá con người là một biện pháp cần thiết, vì Giáo Hội duy trì niềm tin sâu sắc rằng chúng ta không thể tách rời đức tin với việc bảo vệ phẩm giá con người, truyền giáo khỏi việc thúc đẩy một cuộc sống có phẩm giá, và đời sống thiêng liêng khỏi sự cam kết đối với phẩm giá của mọi người.
Phẩm giá của mỗi con người có thể được hiểu là “vô hạn” (dignitas infinita), như ĐTC Gioan Phaolô II đã khẳng định trong một cuộc họp cho những người sống với những hạn chế hoặc khuyết tật khác nhau. [1] Ngài nói điều này để cho thấy phẩm giá con người vượt lên trên mọi vẻ bề ngoài và những khía cạnh cụ thể trong cuộc sống của con người.
Trong Thông điệp Fratelli Tutti, ĐTC Phanxicô muốn nhấn mạnh rằng phẩm giá này tồn tại “vượt trên mọi hoàn cảnh”. Với điều này, ngài đã kêu gọi tất cả mọi người bảo vệ phẩm giá con người trong mọi bối cảnh văn hóa và mọi thời điểm của sự tồn tại của con người, bất kể những khiếm khuyết về thể chất, tâm lý, xã hội, hay thậm chí là đạo đức. Tuyên ngôn cố gắng chỉ ra rằng đây là một sự thật phổ quát mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi để công nhận như một điều kiện cơ bản để các xã hội của chúng ta trở nên thực sự công bằng, hòa bình, lành mạnh và xứng đáng là con người.
Mặc dù không toàn diện, các chủ đề được thảo luận trong Tuyên ngôn này được lựa chọn để làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của phẩm giá con người có thể bị lu mờ trong ý thức của nhiều người. Một số chủ đề có thể gây được tiếng vang ở một số tầng lớp xã hội hơn những tầng lớp khác. Tuy nhiên, tất cả đều gây ấn tượng đối với chúng tôi như là điều cần thiết bởi vì, khi được kết hợp với nhau, chúng giúp chúng ta nhận ra sự hài hòa và phong phú của tư tưởng về phẩm giá con người bắt nguồn từ Tin Mừng.
Tuyên ngôn không nhằm mục đích trình bày trọn vẹn một chủ đề phong phú và quan trọng như vậy. Thay vào đó, mục đích của nó là đưa ra một số điểm để suy ngẫm có thể giúp chúng ta duy trì nhận thức về phẩm giá con người giữa thời khắc lịch sử phức tạp mà chúng ta đang sống. Điều này để chúng ta không lạc lối và mở lòng mình ra với nhiều vết thương và đau khổ sâu sắc hơn giữa vô vàn lo lắng và lo âu của thời đại.
Hồng y Víctor Manuel Fernández
Tổng trưởng
Giới Thiệu
- (Dignitas infinita) Mỗi con người đều sở hữu phẩm giá vô hạn, được đặt nền tảng bất khả xâm phạm trong chính bản thể của họ, phẩm giá này vượt lên trên và vượt qua mọi hoàn cảnh, tình trạng hoặc tình huống mà người đó có thể gặp phải. Nguyên tắc này, hoàn toàn có thể nhận ra ngay cả chỉ bằng lý trí, là nền tảng cho sự ưu tiên của con người và việc bảo vệ quyền con người. Dưới ánh sáng của Mặc khải, Giáo hội kiên quyết nhắc lại và khẳng định phẩm giá bản thể của con người, được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, được cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô. Từ chân lý này, Giáo hội rút ra lý do cho cam kết của mình đối với những người yếu thế và những người thiệt thòi hơn về quyền lực, luôn nhấn mạnh “sự ưu tiên dành cho con người và bảo vệ phẩm giá của họ vượt lên trên mọi hoàn cảnh.” [2]
- Phẩm giá bản thể này cùng giá trị độc đáo và cao quý của mỗi người nam và người nữ trên thế giới đã được tái khẳng định một cách đầy uy quyền trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ban hành vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. [3] Khi chúng ta kỷ niệm 75 năm ngày ra đời của văn kiện đó, Giáo hội thấy đây là cơ hội để tuyên bố lại niềm tin của mình rằng tất cả mọi người — được Thiên Chúa tạo dựng và được cứu chuộc bởi Đức Kitô — phải được công nhận và được đối xử với sự tôn trọng và tình yêu thương xứng đáng với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Lễ kỷ niệm này cũng tạo cơ hội cho Giáo hội làm rõ một số quan niệm sai lầm thường gặp liên quan đến phẩm giá con người và đề cập đến một số vấn đề nghiêm trọng và cấp bách có liên quan.
- Ngay từ khi bắt đầu sứ mệnh của mình và được Tin Mừng thúc đẩy, Giáo hội đã nỗ lực để khẳng định tự do của con người và thúc đẩy quyền lợi của tất cả mọi người. [4] Trong thời gian gần đây, nhờ tiếng nói của các Đức Giáo hoàng, Giáo hội đã có nỗ lực hình thành cam kết này một cách rõ ràng hơn thông qua lời kêu gọi đổi mới việc công nhận phẩm giá cơ bản vốn có trong mỗi người. Về điểm này, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI khẳng định rằng “không có quan điểm nhân học nào sánh bằng quan điểm của Giáo hội về con người — đặc biệt là về tính độc đáo, phẩm giá, tính bất khả xâm phạm và sự phong phú của các quyền cơ bản của người đó, sự thiêng liêng, khả năng giáo dục, khát vọng phát triển toàn diện, và sự bất tử.” [5]
- Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Hội nghị Chung Lần thứ Ba của các Giám mục Châu Mỹ Latinh và Caribê ở Puebla năm 1979, đã khẳng định rằng phẩm giá con người là “một giá trị Tin Mừng không thể bị khinh thường mà không xúc phạm nặng nề đến Đấng Tạo Hóa. Phẩm giá này bị xâm phạm ở cấp độ cá nhân khi các giá trị như tự do, quyền được tuyên xưng tôn giáo của mình, sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần, quyền được hưởng các nhu yếu phẩm thiết yếu, quyền được sự sống không được coi trọng. Nó bị xâm phạm ở cấp độ xã hội và chính trị khi con người không thể thực hiện quyền tham gia của mình, hoặc khi họ phải chịu sự cưỡng bức bất công và phi pháp, hoặc phải chịu tra tấn thể xác hoặc tinh thần, v.v. […] Nếu Giáo hội hiện diện trong việc bảo vệ, hoặc thúc đẩy phẩm giá con người, thì Giáo Hội thực hiện điều đó phù hợp với sứ mệnh của mình, mặc dù nó mang tính tôn giáo chứ không phải xã hội hay chính trị, nhưng không thể bỏ qua việc xem xét con người trong toàn bộ bản thể của họ.” [6]
- Sau đó, vào năm 2010, phát biểu tại Học viện Giáo hoàng về Sự sống, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI tuyên bố rằng phẩm giá con người là “một nguyên tắc nền tảng mà đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại đã luôn bảo vệ, đặc biệt là khi, đối với những người đơn sơ và không có khả năng tự vệ nhất, nó bị coi thường.” [7] Vào một dịp khác, khi nói chuyện với các nhà kinh tế học, ngài tuyên bố rằng “kinh tế và tài chính không tồn tại vì lợi ích của chính chúng; chúng chỉ là một công cụ hoặc phương tiện. Mục đích duy nhất của chúng là con người và sự viên mãn toàn diện của con người trong phẩm giá. Đây là nguồn vốn duy nhất, và cần phải bảo vệ [nó].” [8]
- Ngay từ đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô đã mời gọi Giáo hội “tin vào một người Cha, Đấng yêu thương tất cả mọi người với một tình yêu vô hạn, nhận ra rằng “Ngài đã ban cho họ một phẩm giá vô hạn”. [9] Ngài mạnh mẽ nhấn mạnh rằng phẩm giá to lớn như vậy là một yếu tố khởi nguyên (điều đã được ban cho) cần được thừa nhận một cách trung thành và được đón nhận với lòng biết ơn. Dựa trên sự nhìn nhận và chấp nhận phẩm giá con người này, một sự đồng hành mới giữa mọi người có thể được thiết lập, phát triển các mối quan hệ xã hội trong bối cảnh tình huynh đệ thực sự. Thật vậy, chỉ bằng cách “thừa nhận phẩm giá của mỗi con người”, chúng ta mới “đóng góp vào sự tái sinh của một khát vọng phổ quát về tình huynh đệ.” [10] Đức Phanxicô khẳng định rằng “nguồn gốc của nhân phẩm và tình huynh đệ là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô,” [11] nhưng ngay cả lý trí của con người cũng có thể đi đến niềm tin này thông qua suy tư và đối thoại vì “phẩm giá của người khác phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh, không phải vì phẩm giá đó là thứ chúng ta phát minh hoặc tưởng tượng, mà bởi vì con người sở hữu một giá trị nội tại vượt trội hơn các đối tượng vật chất và các tình huống phụ thuộc. Điều này đòi hỏi họ phải được đối xử khác biệt. Rằng mọi người đều sở hữu phẩm giá bất khả xâm phạm là một chân lý tương ứng với bản chất con người ngoài mọi sự thay đổi văn hóa." [12] Đức Phanxicô kết luận, “con người có cùng phẩm giá bất khả xâm phạm trong mọi thời đại của lịch sử, và không ai có thể tự cho mình là người được phép vì những tình huống cụ thể mà phủ nhận niềm tin này hoặc hành động chống lại nó. ” [13] Xét từ góc độ này, thông điệp Fratelli Tutti của Đức Giáo hoàng Phanxicô, tạo thành một loại “Magna Carta” (giải thích của người dịch: Magna Carta- Hiến chương vĩ đại) về các nhiệm vụ đương thời của chúng ta nhằm bảo vệ và thúc đẩy phẩm giá con người.
Một sự phân biệt cơ bản
- Ngày nay, nhiều người đồng ý về tầm quan trọng và phạm vi quy chuẩn của phẩm giá con người cũng như giá trị độc đáo và siêu việt của mỗi con người. [14] Tuy nhiên, cụm từ "phẩm giá của con người" có nguy cơ bị hiểu theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến những những sự mơ hồ tiềm ẩn [15] và "những mâu thuẫn khiến chúng ta tự hỏi liệu phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người […] có thực sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thăng tiến trong mọi tình huống hay không." [16] Điều này khiến chúng ta nhận ra khả năng phân biệt bốn khía cạnh của khái niệm phẩm giá: phẩm giá bản thể, phẩm giá đạo đức, phẩm giá xã hội và phẩm giá hiện sinh. Quan trọng nhất trong số này là phẩm giá bản thể thuộc về một con người chỉ đơn giản vì người đó tồn tại và được Thiên Chúa mong muốn, tạo dựng và yêu thương. Phẩm giá bản thể là không thể xóa nhòa và luôn có giá trị vượt lên trên mọi hoàn cảnh mà con người có thể gặp phải. Khi nói về phẩm giá đạo đức, chúng ta đề cập đến cách con người thực hiện quyền tự do của mình. Mặc dù con người được phú cho lương tâm, nhưng họ luôn có thể hành động trái lại với nó. Tuy nhiên, làm như vậy, họ sẽ hành xử theo cách “không xứng đáng” đối với bản chất của mình là những tạo vật được Thiên Chúa yêu thương và được kêu gọi để yêu thương người khác. Tuy nhiên, khả năng này luôn tồn tại đối với quyền tự do của con người, và lịch sử minh họa cách các cá nhân — khi thực thi tự do của họ chống lại luật yêu thương được mặc khải bởi Tin Mừng — có thể thực hiện những hành vi tội ác vô cùng nghiêm trọng chống lại người khác. Những người hành động theo cách này dường như đã đánh mất mọi dấu vết của nhân tính và phẩm giá. Đây là nơi mà sự phân biệt hiện tại có thể giúp chúng ta phân biệt giữa phẩm giá đạo đức trên thực tế có thể bị “mất đi” và phẩm giá bản thể không bao giờ có thể bị hủy bỏ. Và chính vì điểm thứ hai này mà chúng ta phải làm việc hết sức mình để tất cả những ai đã làm điều ác đều có thể ăn năn và hoán cải.
- Còn hai khía cạnh khác của phẩm giá cần xem xét: xã hội và hiện sinh. Khi nói về phẩm giá xã hội, chúng ta đề cập đến chất lượng điều kiện sống của một người. Ví dụ, trong các trường hợp nghèo đói cùng cực, khi các cá nhân thậm chí không có những thứ tối thiểu cần thiết để sống theo phẩm giá bản thể của họ, người ta nói rằng những người nghèo đó đang sống trong một hoàn cảnh “không xứng đáng.” Cách diễn đạt này không ngụ ý phán xét những cá nhân đó nhưng nêu bật tình trạng mà họ buộc phải sống mâu thuẫn với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Ý nghĩa cuối cùng là phẩm giá hiện sinh, đây là loại phẩm giá được ngụ ý trong cuộc thảo luận ngày càng tăng về cuộc sống “xứng đáng” và một cuộc sống “không xứng đáng”. Ví dụ, trong khi một số người dường như không thiếu bất cứ điều gì cần thiết cho cuộc sống, nhưng vì nhiều lý do, họ vẫn có thể phải vật lộn để sống với sự bình an, niềm vui và hy vọng. Trong các tình huống khác, sự hiện diện của các bệnh hiểm nghèo, môi trường gia đình bạo lực, các chứng nghiện ngập và các khó khăn khác có thể khiến mọi người cảm nhận điều kiện sống của họ “không xứng đáng” so với nhận thức của họ về phẩm giá bản thể không bao giờ có thể bị che khuất. Những sự phân biệt này nhắc nhở chúng ta về giá trị bất khả xâm phạm của phẩm giá bản thể có gốc rễ trong chính bản thể của con người trong mọi hoàn cảnh.
- Cuối cùng, cần đề cập đến định nghĩa cổ điển về một nhân vị như một “bản thể cá thể có bản tính lý tính” [17] làm rõ ràng nền tảng của phẩm giá con người. Là một “bản thể cá nhân”, con người sở hữu phẩm giá bản thể (tức là ở cấp độ siêu hình của chính sự hiện hữu). Đã nhận được sự tồn tại từ Thiên Chúa, con người là những chủ thể "tồn tại độc lập" - nghĩa là họ thực hiện sự hiện hữu của mình một cách tự chủ. Thuật ngữ "lý tính" bao gồm tất cả các năng lực của con người, bao gồm năng lực biết và hiểu, cũng như năng lực muốn, yêu, chọn và khát khao; nó cũng bao gồm tất cả các chức năng của cơ thể có liên quan mật thiết đến các năng lực này. "Bản tính" đề cập đến các điều kiện đặc biệt đối với chúng ta với tư cách là con người, cho phép các hoạt động khác nhau của chúng ta và những trải nghiệm đặc trưng cho chúng; Theo nghĩa này, bản tính là “nguyên lý hành động”. Chúng ta không tạo ra bản tính của mình; chúng ta giữ nó như một ơn ban và chúng ta có thể nuôi dưỡng, phát triển và nâng cao khả năng của mình. Bằng cách thực thi tự do để trau dồi các giá trị của bản tính, chúng ta sẽ phát triển theo thời gian. Ngay cả khi một người không thể thực thi các năng lực này do các hạn chế hoặc điều kiện khác nhau, tuy nhiên người đó vẫn luôn tồn tại như một “bản thể cá nhân” với phẩm giá toàn vẹn và bất khả xâm phạm. Điều này áp dụng, chẳng hạn, đối với một đứa trẻ chưa sinh ra, một người bất tỉnh hoặc một người già đau khổ.
- Nhận thức ngày càng cao về vị trí trung tâm của phẩm giá con người
- Ngay từ thời cổ đại,[18] trực giác về phẩm giá con người đã nảy sinh từ góc độ xã hội, coi mỗi người được trao một phẩm giá đặc biệt dựa trên cấp bậc và địa vị của họ trong một trật tự đã được thiết lập. Bắt nguồn từ phạm vi xã hội, từ “phẩm giá” sau đó được sử dụng để mô tả phẩm giá khác biệt của muôn loài trong vũ trụ. Theo quan điểm này, tất cả sinh vật đều sở hữu “phẩm giá” riêng theo vị trí của chúng trong sự hài hòa của toàn thể. Một số tư tưởng vĩ đại của thời cổ đại đã bắt đầu thừa nhận một vị trí độc đáo của con người là những sinh vật được ban cho lý trí, có thể chịu trách nhiệm cho bản thân và những người khác trên thế giới. [19] Tuy nhiên, một cách suy nghĩ có thể đặt nền tảng cho sự tôn trọng phẩm giá của mọi con người trong mọi hoàn cảnh vẫn còn là một chặng đường dài.
Những Quan Điểm Trong Kinh Thánh
- Mặc khải trong Kinh thánh dạy rằng tất cả mọi người đều có phẩm giá vốn có bởi vì họ được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa: “Thiên Chúa phán: 'Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, theo hình mẫu của chúng ta' [...] Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1: 26-27). Với điều này, nhân loại có một phẩm chất đặc biệt, có nghĩa là nó không thể đơn thuần giản lược thành các yếu tố vật chất. Hơn nữa, “hình ảnh” không xác định linh hồn hay khả năng trí tuệ mà là phẩm giá của người nam và người nữ. Trong mối quan hệ bình đẳng và yêu thương lẫn nhau, cả người nam và người nữ đều đại diện cho Thiên Chúa trên thế giới và cũng được kêu gọi để nâng niu, nuôi dưỡng thế giới. Bởi vì điều này, được tạo ra theo hình ảnh của Chúa có nghĩa là sở hữu một giá trị thiêng liêng vượt lên trên mọi sự phân biệt về giới tính, xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo. Phẩm giá của chúng ta được Thiên Chúa ban cho; nó không được đòi hỏi hay xứng đáng. Mỗi con người đều được Thiên Chúa yêu thương và mong muốn, do đó, có một phẩm giá bất khả xâm phạm. Trong sách Xuất Hành, ở trung tâm của Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ mình là Đấng nghe thấy tiếng kêu than của người nghèo, thấy cảnh khốn cùng của dân mình, và quan tâm đến những người thấp hèn nhất và những người bị áp bức (xem Xh 3,7; 22,20–26). Giáo huấn tương tự cũng có thể được tìm thấy trong Bộ luật Đệ nhị luật (xem Đnl 12-26); Ở đây, giáo huấn về quyền được chuyển thành bản tuyên ngôn về phẩm giá con người, đặc biệt ủng hộ ba nhóm người: trẻ mồ côi, góa phụ và người xa lạ (xem Đnl 24,17). Các giáo huấn cổ xưa trong sách Xuất Hành được nhắc lại và áp dụng vào thời điểm rao giảng của các ngôn sứ, những người đại diện cho lương tâm phê phán của dân Israel. Các ngôn sứ Amos, Hosea, Isaiah, Micah và Jeremiah đều có những lời lên án sự bất công. Amos cay đắng lên án sự áp bức người nghèo và sự thất bại của những người nghe ông trong việc nhận ra bất kỳ phẩm giá cơ bản nào của con người nơi những người khốn khổ (xem Am 2,6 – 7; 4,1; 5,11 – 12). Isaiah nguyền rủa những kẻ chà đạp quyền lợi của người nghèo, không cho họ công lý: “Khốn cho những kẻ ban hành các sắc lệnh bất công, và những người viết tiếp tục viết những điều áp bức, để đánh đuổi người nghèo ra khỏi công lý” (Is 10, 1– 2). Giáo huấn mang tính ngôn sứ này được lặp lại trong Văn chương Khôn ngoan. Ví dụ, Sirach đánh đồng việc áp bức người nghèo với tội giết người: “Lấy đi sinh kế của người lân cận là sát hại họ; tước đoạt tiền lương của người lao động là đổ máu” (Sir. 34,22). Trong các Thánh vịnh, mối quan hệ tôn giáo với Thiên Chúa được thể hiện qua việc bênh vực những người yếu đuối và nghèo khó: “Hãy thực thi công lý cho người yếu đuối và trẻ mồ côi; thực thi công lý cho người nghèo và người đau khổ. Hãy giải cứu kẻ yếu đuối và người nghèo khó; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay kẻ ác” (Tv 82,3–4).
- Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khiêm nhường, Chúa Giê-su mặc khải phẩm giá của người túng thiếu và những người lao động. [20] Sau đó, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Ngài khẳng định giá trị và phẩm giá của tất cả những ai mang hình ảnh của Thiên Chúa, bất kể địa vị xã hội và hoàn cảnh bên ngoài của họ. Chúa Giêsu đã phá vỡ những rào cản văn hóa và giáo phái, phục hồi phẩm giá cho những người bị “ruồng bỏ” hoặc bị coi là bên lề xã hội, chẳng hạn như người thu thuế (xem Mt 9,10–11), phụ nữ (xem Ga 4 : 1-42), trẻ em (xem Mc 10,14–15), người phong cùi (xem Mt 8,2–3), người bệnh (xem Mc 1,29-34), người ngoại quốc (xem Mt 25,35) và những người góa bụa (xem Lc 7,11 – 15). Ngài chữa lành, cho ăn, bênh vực, giải phóng và cứu rỗi. Ngài được mô tả như một người chăn chiên lo lắng về con chiên bị mất (xem Mt 18: 12-14). Ngài đồng nhất mình với người thấp hèn nhất trong các anh em mình: “Anh em làm gì cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40). Trong ngôn ngữ Kinh thánh, “những người bé mọn” không chỉ là trẻ em mà còn là những người dễ bị tổn thương, những người tầm thường nhất, những người bị ruồng bỏ, bị áp bức, bị bỏ rơi, người nghèo, người bị gạt ra bên lề, người không hiểu biết, người bệnh tật, và những người bị kẻ mạnh chà đạp. Đức Kitô vinh quang sẽ phán xét bởi tình yêu thương tha nhân bao gồm việc chăm sóc người đói, người khát, người lạ, người trần trụi, người bệnh và người bị bỏ tù, người mà Ngài đồng nhất với mình (xem Mt 25,34 – 36). Đối với Chúa Giêsu, điều tốt đẹp được thực hiện cho mọi người, bất kể quan hệ huyết thống hay tôn giáo, là tiêu chí duy nhất để phán xét. Tông đồ Phao-lô khẳng định rằng mọi Ki-tô hữu phải sống theo các đòi hỏi của phẩm giá và tôn trọng quyền lợi của tất cả mọi người (xem Rm 13,8 – 10) theo điều răn mới về yêu thương (xem 1 Cr 13,1 – 13).
Những phát triển trong Tư tưởng Kitô giáo
- Khi tư tưởng Kitô giáo phát triển, nó cũng thúc đẩy và đồng hành cùng sự tiến bộ trong suy tư của nhân loại về khái niệm phẩm giá. Dựa trên truyền thống phong phú của các Giáo Phụ, nhân học Kitô giáo cổ điển đã nhấn mạnh giáo lý về con người được tạo ra theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, cùng vai trò đặc biệt của con người trong công trình sáng tạo.[21] Bằng cách sàng lọc một cách phê phán qua di sản thừa kế từ triết học cổ đại, tư tưởng Kitô giáo thời Trung cổ đã đạt đến một tổng hợp về khái niệm "con người", công nhận nền tảng siêu hình của nhân phẩm. Thánh Thomas Aquinas đã chứng thực điều này khi ngài khẳng định rằng “'con người' biểu thị điều hoàn hảo nhất trong toàn bộ tự nhiên—đó là một cá thể tồn tại thuộc về một bản thể lý tính.” [22] Chủ nghĩa nhân văn Kitô giáo của thời Phục hưng sau đó đã nhấn mạnh phẩm giá bản thể học này và biểu hiện nổi bật của nó trong hành động tự do của con người. [23] Ngay cả trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng hiện đại như Descartes và Kant, những người đã thách thức một số nền tảng của nhân học Kitô giáo truyền thống, người ta vẫn có thể cảm nhận rõ ràng những âm hưởng của Mặc Khải. Dựa trên một số suy tư triết học gần đây về vị thế của chủ thể lý thuyết và thực tiễn, sự suy tư Kitô giáo sau đó chuyển sang nhấn mạnh hơn nữa chiều sâu của khái niệm phẩm giá. Trong thế kỷ XX, điều này đạt đến một viễn cảnh độc đáo (thể hiện qua Chủ nghĩa Cá nhân) đã xem xét lại câu hỏi về tính chủ thể và mở rộng nó để bao gồm tính liên chủ thể và các mối quan hệ gắn kết mọi người với nhau.[24] Tư tưởng bắt nguồn từ quan điểm này đã làm phong phú thêm nhân học Kitô giáo đương đại. [25]
Thời đại hiện nay
- Ngày nay, thuật ngữ "phẩm giá" chủ yếu được sử dụng để nhấn mạnh tính độc đáo của con người, không thể so sánh với tất cả các thực thể khác trong vũ trụ. Từ góc nhìn này, chúng ta có thể hiểu cách từ "phẩm giá" được sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc năm 1948, nói về "phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của tất cả các thành viên của gia đình nhân loại". Chỉ có tính chất bất khả xâm phạm này của phẩm giá con người mới cho phép nói về quyền con người.[26]
- Để làm rõ hơn nữa khái niệm về phẩm giá, điều cần thiết là phải chỉ ra rằng phẩm giá không phải là thứ được người khác ban cho một người dựa trên các ân huệ hay phẩm chất của họ, đến mức nó có thể bị rút lại. Nếu nó được ban cho như vậy, nó sẽ được trao một cách có điều kiện và có thể bị tước đoạt, và khi đó ngay cả ý nghĩa của phẩm giá (dù đáng được tôn trọng lớn lao đến đâu) sẽ vẫn bị phơi bày trước nguy cơ bị xóa bỏ. Thay vào đó, phẩm giá là nội tại của con người: nó không được trao sau đó (a posteriori), nó có trước bất kỳ sự công nhận nào, và nó không thể bị mất đi. Tất cả con người đều sở hữu phẩm giá nội tại như nhau này, bất kể họ có thể bày tỏ nó một cách thích hợp hay không.
- Vì lý do này, Công đồng Vatican II nói về "phẩm giá cao quí của con người, vượt trên mọi sự vật và có những quyền và nghĩa vụ phổ quát và bất khả xâm phạm."[27] Như câu mở đầu của Tuyên ngôn Dignitatis Humanae của Công đồng nhắc lại, "con người đương thời ngày càng ý thức hơn về phẩm giá của con người; ngày càng có nhiều người đòi hỏi rằng con người phải thực thi đầy đủ khả năng phán đoán của riêng mình và một sự tự do có trách nhiệm trong hành động, không bị áp lực cưỡng bức mà được truyền cảm hứng bởi ý thức về bổn phận."[28] Sự tự do tư tưởng và lương tâm như vậy, cả cá nhân và cộng đồng, dựa trên việc công nhận phẩm giá con người "như đã biết qua Lời Chúa mạc khải và bởi chính lý trí."[29] Huấn quyền của Giáo hội đã dần dần phát triển sự hiểu biết ngày càng lớn hơn về ý nghĩa của phẩm giá con người, cùng với các đòi hỏi và hệ quả của nó, cho đến khi đạt đến sự công nhận rằng phẩm giá của mỗi con người vượt lên trên mọi hoàn cảnh.
2. Giáo Hội Công Bố, Thúc Đẩy và Bảo Vệ Phẩm Giá Con Người
17. Giáo Hội công bố phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người, bất kể điều kiện sống hay đặc tính cá nhân của họ. Tuyên bố này dựa trên ba nền tảng cho niềm tin về phẩm giá con người, mà—trong ánh sáng của đức tin Kitô giáo— mang lại cho phẩm giá con người một giá trị vô song và củng cố những đòi hỏi nội tại của nó.
Hình ảnh không thể xóa nhòa của Thiên Chúa
18. Niềm tin đầu tiên, được rút ra từ Mặc Khải, cho rằng phẩm giá của con người đến từ tình yêu của Đấng Tạo Hóa, Đấng đã khắc sâu những đường nét không thể xóa nhòa của hình ảnh Ngài trên mỗi con người (x. St 1,26). Đấng Tạo Hóa mời gọi mỗi người nhận biết Ngài, yêu mến Ngài và sống trong mối tương quan giao ước với Ngài, đồng thời kêu gọi họ sống tình huynh đệ, công lý và hòa bình với mọi người. Theo quan điểm này, phẩm giá không chỉ nói đến linh hồn mà còn nói đến toàn bộ con người, một sự hợp nhất không thể tách rời giữa thể xác và linh hồn. Theo đó, phẩm giá cũng vốn có trong thân xác của mỗi người, là nơi mang hình ảnh của Thiên Chúa theo cách riêng (in imago Dei) và cũng được mời gọi để chia sẻ vinh quang của linh hồn trong niềm hạnh phúc thiêng liêng.
Đức Kitô nâng cao phẩm giá con người
19. Niềm tin thứ hai xuất phát từ thực tế là phẩm giá của con người đã được mặc khải trọn vẹn khi Chúa Cha sai chính Con Ngài nhập thể làm người một cách trọn vẹn: “Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã xác nhận phẩm giá của thân xác và linh hồn cấu thành nên con người.” [30] Qua việc kết hợp chính mình với mọi người qua sự Nhập Thể, Đức Giêsu Kitô đã xác nhận rằng mỗi người sở hữu một phẩm giá không thể đo lường được, chỉ bởi vì họ thuộc về cộng đồng nhân loại; hơn nữa, Ngài khẳng định rằng phẩm giá này không bao giờ có thể bị mất đi. [31] Bằng cách công bố rằng Nước Thiên Chúa thuộc về người nghèo, người khiêm nhường, người bị khinh miệt và những người đau khổ về thể xác và tinh thần; bằng cách chữa lành mọi thứ bệnh tật và đau yếu, thậm chí là những căn bệnh nặng nề nhất, chẳng hạn như bệnh phong cùi; bằng cách khẳng định rằng bất cứ điều gì làm cho những người này cũng là làm cho Ngài vì Ngài ở trong họ: trong tất cả những điều này, Chúa Giêsu đã mang đến sự mới mẻ tuyệt vời khi công nhận phẩm giá của mỗi người, đặc biệt là những người được coi là "không xứng đáng.” Nguyên tắc mới mẻ này trong lịch sử nhân loại— nhấn mạnh rằng các cá nhân thậm chí còn "xứng đáng" hơn để chúng ta tôn trọng và yêu thương khi họ yếu đuối, bị khinh miệt hoặc đau khổ, thậm chí đến mức mất đi "hình hài" con người —đã thay đổi bộ mặt của thế giới. Nó đã mang lại sức sống cho các tổ chức chăm sóc những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn, chẳng hạn như trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ mồ côi, người già không được giúp đỡ, người bệnh tâm thần, người mắc bệnh nan y hoặc dị tật nặng, người sống trên đường phố.
Ơn gọi đạt tới sự viên mãn của phẩm giá
20. Niềm tin thứ ba liên quan đến số phận tối hậu của con người. Sau công trình Tọa Dựng và Nhập Thể, Sự Phục Sinh của Đức Kitô đã mặc khải thêm một khía cạnh khác của phẩm giá con người. Quả thực, “phẩm giá của con người cốt yếu dựa trên thực tế là con người được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa,” [32] một cuộc hiệp thông được định sẵn để tồn tại mãi mãi. Vì vậy, "phẩm giá của sự sống này không chỉ gắn với khởi đầu của nó, với thực tế rằng nó đến từ Thiên Chúa, mà còn gắn liền với cùng đích cuối cùng của nó, với định mệnh thông hiệp với Thiên Chúa trong sự hiểu biết và yêu mến Ngài." [33]
21. Do đó, Giáo Hội tin tưởng và khẳng định rằng tất cả mọi người — được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, và được tái tạo [34] nơi Chúa Con, Đấng trở nên con người, bị đóng đinh và sống lại — đều được kêu gọi để lớn lên dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhằm phản ánh vinh quang của Chúa Cha trong chính hình ảnh đó, và chia sẻ sự sống đời đời (x. Ga 10,15–16, 17,22–24; 2 Cr 3,18; Ep 1,3–14). Quả thật, “Mặc Khải […] cho thấy phẩm giá của một con người trong tất cả sự viên mãn của nó.” [35]
Cam Kết Với Tự Do Của Chính Mình
22. Mỗi cá nhân đều sở hữu phẩm giá bất khả xâm phạm và nội tại ngay từ khi bắt đầu sự tồn tại của mình như một món quà không thể thu hồi. Tuy nhiên, việc lựa chọn thể hiện phẩm giá đó và biểu lộ nó trọn vẹn hay che khuất nó lại phụ thuộc vào quyết định tự do và có trách nhiệm của mỗi người. Một số Giáo phụ, chẳng hạn như Thánh Irênê và Thánh Gioan Đamascenô, đã phân biệt giữa “hình ảnh” và “sự giống nhau” được đề cập trong sách Sáng thế (xem 1,26). Điều này cho phép một góc nhìn năng động về phẩm giá con người, theo đó hình ảnh của Thiên Chúa được giao phó cho sự tự do của con người để—dưới sự hướng dẫn và tác động của Thần Khí—sự giống nhau của con người với Thiên Chúa có thể phát triển và mỗi người có thể đạt được phẩm giá cao nhất của mình. [36] Mọi người đều được kêu gọi biểu lộ phạm vi bản thể của phẩm giá mình ở cấp độ hiện sinh và luân lý, khi họ, bằng sự tự do của mình, tự định hướng bản thân hướng về điều thiện chân chính để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Như vậy, với tư cách là người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, con người không bao giờ đánh mất phẩm giá của mình và không bao giờ ngừng được kêu gọi để tự do đón nhận điều thiện. Đồng thời, trong chừng mực người đó đáp lại điều thiện, phẩm giá của mỗi người có thể tự do biểu lộ, phát triển năng động và dần dần; cùng với tiến trình đó, nó có thể phát triển và trưởng thành. Do đó, mỗi người cũng phải cố gắng để sống xứng đáng với mức độ trọn vẹn của phẩm giá mình. Dưới ánh sáng này, người ta có thể hiểu được tội lỗi có thể làm tổn thương và che khuất phẩm giá con người như thế nào, vì đây là một hành động trái ngược với phẩm giá; tuy nhiên, tội lỗi không bao giờ có thể xóa bỏ được sự thật rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Theo cách này, đức tin đóng một vai trò quyết định trong việc giúp lý trí nhận thức phẩm giá con người và trong việc chấp nhận, củng cố và làm rõ các đặc điểm cốt lõi của nó, như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã chỉ ra: “Tuy nhiên, nếu không được điều chỉnh bởi tôn giáo, bản thân lý trí cũng có thể trở thành nạn nhân của những xuyên tạc, chẳng hạn như khi nó bị thao túng bởi ý thức hệ, hoặc được áp dụng một cách thiển cận, không tính đến toàn bộ phẩm giá của con người. Cuộc lạm dụng lý trí như vậy, rốt cuộc, chính là nguồn gốc của nạn buôn bán nô lệ ngay từ đầu và nhiều tệ nạn xã hội khác, không kể đến các hệ tư tưởng độc tài của thế kỷ XX.”[37]
3. Phẩm giá, Nền Tảng của Nhân Quyền và Nghĩa Vụ
23. Như Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc lại, “Trong nền văn hóa hiện đại, tham chiếu gần nhất về nguyên tắc phẩm giá bất khả xâm phạm của con người là Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền, mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II định nghĩa là ‘một cột mốc trên con đường dài và gian nan của nhân loại,’ và là ‘một trong những tuyên ngôn cao quý nhất của lương tâm con người.’”[38] Để chống lại những nỗ lực nhằm thay đổi hoặc hủy bỏ ý nghĩa sâu sắc của Tuyên Ngôn đó, điều đáng nhớ là một số nguyên tắc cơ bản luôn phải được tôn trọng.
Tôn Trọng Vô Điều Kiện đối với Phẩm giá Con Người
24. Thứ nhất, trong khi nhận thức về phẩm giá con người ngày càng tăng lên, thì nhiều sự hiểu lầm về khái niệm này vẫn làm sai lệch ý nghĩa của nó. Một số người đề xuất rằng nên sử dụng thuật ngữ “phẩm giá cá nhân” (và các quyền “của cá nhân”) thay vì “phẩm giá con người” (và các quyền “của con người”) vì họ hiểu “cá nhân” chỉ là “người có khả năng suy luận.” Sau đó, họ lập luận rằng phẩm giá và quyền lợi được suy ra từ khả năng kiến thức và tự do của cá nhân, mà không phải tất cả con người đều có. Do đó, theo họ, thai nhi sẽ không có phẩm giá cá nhân, người già phụ thuộc người khác cũng không có, người khuyết tật tâm thần cũng không có.[39] Ngược lại, Giáo hội nhấn mạnh rằng phẩm giá của mỗi con người, chính xác vì nó là nội tại, vẫn tồn tại “trong mọi trường hợp.” Việc công nhận phẩm giá này không thể phụ thuộc vào phán đoán về khả năng hiểu và hành động tự do của người đó; nếu không, nó sẽ không vốn có trong con người, độc lập với tình trạng của cá nhân, và do đó xứng đáng được tôn trọng vô điều kiện. Chỉ bằng cách công nhận phẩm chất nội tại và bất khả chuyển nhượng trong mỗi con người, chúng ta mới có thể đảm bảo một nền tảng vững chắc và bất khả xâm phạm cho phẩm giá đó. Nếu không có nền tảng bản thể luận nào, việc công nhận phẩm giá con người sẽ dao động theo những phán đoán tùy ý và võ đoán. Điều kiện tiên quyết duy nhất để nói về phẩm chất vốn có trong con người là việc họ thuộc về loài người, theo đó “nhân quyền của cá nhân chính là nhân quyền của nhân loại.”[40]
Nền Tảng Khách Quan cho Tự Do Con Người
25. Thứ hai, khái niệm về phẩm giá con người đôi khi cũng bị lạm dụng để biện minh cho sự gia tăng tùy ý các quyền mới, nhiều quyền trong số đó mâu thuẫn với các quyền được định nghĩa ban đầu và thường mâu thuẫn với quyền cơ bản là quyền được sống.[41] Cứ như thể khả năng thể hiện và hiện thực hóa mọi sở thích cá nhân hoặc ham muốn chủ quan phải được đảm bảo. Quan điểm này đồng nhất phẩm giá với một loại tự do cá nhân và cá nhân chủ nghĩa, tuyên bố áp đặt những ham muốn và khuynh hướng chủ quan cụ thể thành “quyền” được cộng đồng đảm bảo và hỗ trợ tài chính. Tuy nhiên, phẩm giá con người không thể dựa trên các tiêu chuẩn chỉ mang tính cá nhân, cũng không thể đồng nhất với sự khỏe mạnh về thể chất và tâm lý của cá nhân. Đúng hơn, việc bảo vệ phẩm giá con người dựa trên những đòi hỏi cấu thành của bản chất con người, không phụ thuộc vào sự tùy ý của cá nhân hay sự công nhận của xã hội. Do đó, các nghĩa vụ bắt nguồn từ việc công nhận phẩm giá của người khác và các quyền tương ứng phát sinh từ đó có nội dung cụ thể và khách quan dựa trên bản chất chung của con người chúng ta. Nếu không có một nền tảng khách quan như vậy, khái niệm phẩm giá con người trên thực tế sẽ phụ thuộc vào các hình thức tùy ý và lợi ích quyền lực đa dạng nhất.
Cấu Trúc Quan Hệ của Con Người
26. Nhìn qua lăng kính về bản chất tương quan của con người, phẩm giá con người giúp vượt qua quan điểm hạn hẹp về một thứ tự do cá nhân và tự tham chiếu, thứ tự do này tự cho phép tạo ra các giá trị riêng của nó bất kể các chuẩn mực khách quan về điều thiện và mối quan hệ của chúng ta với các sinh vật sống khác. Thật vậy, ngày càng có nguy cơ thu hẹp giảm phẩm giá con người xuống thành khả năng xác định bản sắc và tương lai của một người độc lập với người khác, không quan tâm đến việc người đó là thành viên của cộng đồng nhân loại. Trong cách hiểu sai lầm về tự do này, việc công nhận lẫn nhau các nghĩa vụ và quyền lợi cho phép chúng ta chăm sóc lẫn nhau trở nên bất khả thi. Thực tế, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại, tự do được đặt “vào việc phục vụ con người và sự hoàn thiện của họ thông qua sự hy sinh bản thân và sự cởi mở với người khác; nhưng khi tự do được tuyệt đối hóa theo cách cá nhân, nó sẽ bị tước bỏ nội dung ban đầu, và chính ý nghĩa và phẩm giá của nó bị mâu thuẫn.”[42]
27. Phẩm giá con người cũng bao gồm khả năng, vốn có trong bản chất con người, để đảm nhận các nghĩa vụ đối với người khác.
28. Sự khác biệt giữa con người và tất cả các sinh vật sống khác, được thể hiện rõ nhờ khái niệm phẩm giá, không nên khiến chúng ta quên đi sự tốt lành của các sinh vật khác. Những sinh vật đó tồn tại không chỉ vì tiện ích của con người mà còn sở hữu giá trị riêng của chúng; chúng giống như những món quà được giao phó cho nhân loại để yêu quý và vun đắp. Vì vậy, trong khi khái niệm phẩm giá dành riêng cho con người, thì đồng thời, sự tốt lành của các sinh vật khác trong vũ trụ cũng phải được khẳng định. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô chỉ ra, “Nhờ vào phẩm chất độc đáo và món quà trí thông minh của chúng ta, chúng ta được kêu gọi tôn trọng sáng tạo và các quy luật vốn có của nó […], ‘Mỗi tạo vật đều sở hữu sự thiện hảo và sự hoàn hảo riêng của nó… Mỗi tạo vật khác nhau, được mong muốn trong chính bản thể của nó, theo cách riêng của nó phản ánh một tia sáng của sự khôn ngoan và lòng tốt vô hạn của Thiên Chúa. Do đó, con người phải tôn trọng sự thiện hảo đặc biệt của mọi tạo vật, để mọi sự lạm dụng và sử dụng sai mục đích các sự vật.’”[43] Hơn nữa, “ngày nay chúng ta buộc phải nhận ra rằng chỉ có thể duy trì được một ‘chủ nghĩa nhân bản lấy con người làm trung tâm phù hợp với bối cảnh.’ Nói cách khác, để nhận ra rằng cuộc sống của con người là không thể hiểu và không thể duy trì nếu thiếu các sinh vật khác.”[44] Theo quan điểm này, “chúng ta không thể thờ ơ trước việc quá nhiều loài đang biến mất và khủng hoảng khí hậu đang đe dọa đến sự sống của nhiều sinh vật khác.”[45] Thật vậy, việc chăm sóc môi trường, đặc biệt chú ý đến sinh thái nhân văn, yếu tố bảo toàn sự tồn tại của chính con người, thuộc về phẩm giá của con người.
Giải phóng Con Người khỏi những Ảnh hưởng Tiêu cực trong Lĩnh vực Đạo Đức và Xã hội
29. Những điều kiện tiên quyết cơ bản này, dù cần thiết, nhưng không đủ để đảm bảo sự phát triển của con người phù hợp với phẩm giá của họ. Trong khi “Thiên Chúa tạo dựng con người thành một hữu thể có lý trí, ban cho con người phẩm giá của một nhân vị có thể chủ động và kiểm soát hành động của mình,”[46] hướng đến điều thiện, thì ý chí tự do của chúng ta lại thường ưu tiên cái ác hơn điều thiện. Do đó, sự tự do của con người, đến lượt nó, cần được giải phóng. Trong thư gửi tín hữu Galat, Thánh Phaolô khẳng định rằng “Chính vì để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gal. 5:1), nhắc nhở nhiệm vụ đặc thù của mỗi Kitô hữu, những người gánh vác trách nhiệm giải thoát mở rộng ra toàn thế giới (xem Rom. 8:19). Đây là sự giải thoát bắt đầu từ trái tim của từng cá nhân, được kêu gọi lan tỏa và thể hiện sức mạnh nhân bản của nó trong tất cả các mối quan hệ.
30. Tự do là món quà tuyệt vời từ Thiên Chúa. Ngay cả khi Ngài hướng chúng ta đến Ngài bằng ân sủng của mình, Ngài vẫn làm điều đó theo cách không bao giờ vi phạm quyền tự do của chúng ta. Vì vậy, sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng bằng tách rời khỏi Đấng Sáng Tạo và sự trợ giúp của Ngài, chúng ta có thể trở nên tự do hơn và do đó cảm thấy có phẩm giá hơn. Ngược lại, tách rời Đấng Tạo Hóa, tự do của chúng ta chỉ có thể suy yếu và trở nên mờ mịt. Điều tương tự cũng xảy ra nếu tự do tự cho mình là độc lập với bất kỳ tham chiếu bên ngoài nào và coi bất kỳ mối quan hệ nào với một chân lý trước đó là mối đe dọa; kết quả là, sự tôn trọng tự do và phẩm giá của người khác cũng sẽ giảm sút. Như Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã giải thích, “Một ý chí tin rằng mình hoàn toàn không có khả năng tìm kiếm chân lý và điều thiện thì không có lý do hay động cơ khách quan nào để hành động ngoại trừ những điều do lợi ích nhất thời và tình cờ của nó áp đặt; nó không có ‘bản sắc’ để bảo vệ và xây dựng thông qua những quyết định thực sự tự do và có ý thức. Kết quả là, nó không thể đòi hỏi sự tôn trọng từ những ‘ý chí’ khác, những ý chí này cũng tách rời bản thể sâu thẳm nhất của mình và do đó có khả năng áp đặt những ‘lý do’ khác hoặc, hoàn toàn không có ‘lý do’ nào cả. Ảo tưởng cho rằng chủ nghĩa tương đối luân lý cung cấp chìa khóa cho sự chung sống hòa bình thực sự là nguồn gốc của những chia rẽ và sự phủ nhận phẩm giá của con người.”[47]
31. Hơn nữa, sẽ là không thực tế khi đưa ra một thứ tự do trừu tượng, không chịu bất kỳ ảnh hưởng, bối cảnh hay hạn chế nào. Thay vào đó, “việc thực hiện đúng đắn tự do cá nhân đòi hỏi những điều kiện cụ thể về trật tự kinh tế, xã hội, pháp luật, chính trị và văn hóa,”[48] điều này thường không được đáp ứng. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng một số cá nhân được hưởng “tự do” nhiều hơn những người khác. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đặc biệt chú ý đến điểm này: “Một số người được sinh ra trong gia đình ổn định về kinh tế, được hưởng nền giáo dục tốt, lớn lên với sự nuôi dưỡng đầy đủ, hoặc bẩm sinh sở hữu tài năng tuyệt vời. Chắc chắn họ không cần một nhà nước chủ động; họ chỉ cần tuyên bố quyền tự do của mình. Tuy nhiên, quy tắc tương tự rõ ràng không áp dụng cho người khuyết tật, người sinh ra trong cảnh nghèo khổ, những người thiếu nền giáo dục tốt và ít được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Nếu một xã hội được điều hành chủ yếu bởi các tiêu chí về thị trường tự do và hiệu quả, thì sẽ không có chỗ cho những người như vậy, và tình huynh đệ chỉ còn là một lý tưởng mơ hồ.”[49] Do đó, điều quan trọng là phải hiểu rằng “loại bỏ bất công thúc đẩy tự do và phẩm giá con người”[50] ở mọi phương diện của đời sống nhân sinh. Để cho phép tự do đích thực, "chúng ta phải đặt phẩm giá con người trở lại trung tâm và trên trụ cột đó, xây dựng các cấu trúc xã hội thay thế mà chúng ta cần."[51] Tương tự, tự do thường bị che khuất bởi nhiều ảnh hưởng tâm lý, lịch sử, xã hội, giáo dục và văn hóa khác nhau. Tự do thực tế và lịch sử luôn cần được "giải thoát." Hơn nữa, phải khẳng định lại quyền tự do tôn giáo cơ bản.
32. Đồng thời, lịch sử nhân loại cho thấy sự tiến bộ rõ rệt trong việc hiểu về phẩm giá và tự do của con người, mặc dù không phải không có những bóng tối và nguy cơ thoái hóa. Sự tiến bộ như vậy trong việc hiểu về phẩm giá con người được chứng minh bởi thực tế là ngày càng có mong muốn xóa bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chế độ nô lệ và sự gạt ra ngoài lề của phụ nữ, trẻ em, người bệnh và người khuyết tật. Khát vọng này đã được củng cố dưới ảnh hưởng của đức tin Kitô giáo, vốn tiếp tục là một chất men, ngay cả trong các xã hội ngày càng thế tục hóa. Tuy nhiên, hành trình gian nan trong việc thúc đẩy phẩm giá con người vẫn còn xa mới hoàn thành.
4. Một Số Vi Phạm Nghiêm Trọng Đối Với Phẩm Giá Con Người
33. Dưới ánh sáng những suy tư trước đó về tính trung tâm của phẩm giá con người, phần cuối của Bản Tuyên Bố này sẽ đề cập đến một số vi phạm cụ thể và nghiêm trọng đối với phẩm giá đó. Nó được thực hiện theo tinh thần phù hợp với quyền dạy dỗ của Giáo Hội, vốn đã được thể hiện đầy đủ trong giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây, như đã đề cập trước đó. Ví dụ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một mặt, không ngừng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết tôn trọng phẩm giá con người: “Mỗi con người đều có quyền sống trong phẩm giá và phát triển toàn diện; quyền cơ bản này không thể bị bất kỳ quốc gia nào phủ nhận. Con người có quyền này ngay cả khi họ kém hiệu quả trong công việc, hoặc vốn sinh ra mang những hạn chế, hoặc dần hình thành những rào cản trong cuộc đời. Điều này không làm giảm bớt phẩm giá cao quý của họ là con người, một phẩm giá không dựa trên hoàn cảnh mà dựa trên giá trị nội tại của sự hiện hữu. Nếu nguyên tắc cơ bản này không được duy trì, sẽ không có tương lai cho tình huynh đệ hoặc cho sự tồn tại của nhân loại.” [52] Mặt khác, ngài không ngừng chỉ ra những vi phạm cụ thể đối với phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, kêu gọi mỗi người chúng ta thức tỉnh trách nhiệm của mình và sự cần thiết tham gia vào một cam kết cụ thể về vấn đề này.
34. Khi giải quyết một số vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người ngày nay, chúng ta có thể dựa vào những giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II, nhấn mạnh rằng “mọi tội ác chống lại sự sống, chẳng hạn như giết người, diệt chủng, phá thai, an tử và tự tử có chủ ý” phải được xem là trái với phẩm giá con người. [53] Hơn nữa, Công Đồng khẳng định rằng “mọi hành vi xâm phạm sự toàn vẹn của con người, chẳng hạn như cắt xén cơ thể, tra tấn thể xácvà tinh thần, áp lực tâm lý quá đáng,” cũng vi phạm đến phẩm giá của chúng ta. [54] Cuối cùng, công đồng lên án “mọi hành vi xúc phạm đến phẩm giá con người, chẳng hạn như điều kiện sống không xứng đáng con người, giam cầm tùy tiện, trục xuất, chế độ nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, điều kiện làm việc hạ thấp nhân phẩm, nơi con người được đối xử như những công cụ kiếm lợi đơn thuần chứ không phải những con người tự do và có trách nhiệm.” [55] Ở đây, người ta cũng nên đề cập đến hình phạt tử hình, vì điều này cũng vi phạm phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, bất kể hoàn cảnh nào. [56] Về vấn đề này, chúng ta phải nhận ra rằng “việc kiên quyết bác bỏ hình phạt tử hình cho thấy mức độ mà chúng ta có thể nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người và chấp nhận rằng mỗi người đều có một vị trí riêng trong thế giới bao la này. Nếu tôi không phủ nhận phẩm giá đó đối với những kẻ phạm tội tồi tệ nhất, thì tôi sẽ không phủ nhận nó với bất kỳ ai. Tôi sẽ cho mọi người khả năng chia sẻ hành tinh này với tôi, bất chấp tất cả những khác biệt của chúng ta.” [57] Cũng cần thiết phải tái khẳng định phẩm giá của những người bị giam cầm, những người thường phải sống trong những điều kiện không xứng đáng. Cuối cùng, cần phải nói rằng - ngay cả khi ai đó phạm tội nghiêm trọng - thì việc tra tấn hoàn toàn trái ngược với phẩm giá vốn có của mỗi con người.
35. Mặc dù không tuyên bố là toàn diện, các đoạn sau đây sẽ thu hút sự chú ý đến một số vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người có liên quan đặc biệt.
Bi kịch của Nghèo Đói
- Một trong những hiện tượng góp phần đáng kể vào việc phủ nhận phẩm giá của rất nhiều con người là nghèo đói cùng cực, gắn liền với sự phân phối bất bình đẳng của cải. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh, “Một trong những bất công lớn nhất trong thế giới đương đại chính là ở chỗ: những người sở hữu nhiều thì tương đối ít và những người hầu như không có gì để sở hữu thì lại rất nhiều. Đó là sự bất công trong việc phân phối hàng hóa và dịch vụ vốn dĩ dành cho tất cả mọi người.”[58] Hơn nữa, sẽ là sai lầm nếu chỉ phân biệt sơ sài giữa các quốc gia “giàu” và “nghèo”, vì Đức Giáo Hoàng Benedict XVI thừa nhận rằng “nhìn chung, của cải của thế giới đang tăng lên, nhưng bất bình đẳng đang gia tăng. Ở các nước giàu, các tầng lớp xã hội mới đang rơi vào cảnh nghèo đói và những dạng nghèo đói mới đang xuất hiện. Ở những khu vực nghèo hơn, một số nhóm người được hưởng một loại ‘siêu phát triển’ kiểu phung phí và tiêu dùng, tạo thành một sự đối lập không thể chấp nhận được với tình trạng tước đoạt phi nhân tính đang diễn ra.” “‘Vấn nạn bất bình đẳng trầm trọng’ vẫn tiếp tục,”[59] nơi phẩm giá của người nghèo bị phủ nhận gấp đôi vì thiếu nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ và sự thờ ơ của những người lân cận dành cho họ.
- Do đó, cùng với Giáo Hoàng Phanxicô, người ta phải kết luận rằng “của cải đã tăng lên, nhưng đi kèm với bất bình đẳng, kết quả là ‘những dạng nghèo đói mới đang xuất hiện.’ Lời khẳng định rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo được đưa ra bằng cách đo lường nghèo đói với các tiêu chí từ quá khứ không phù hợp với thực tế ngày nay.”[60] Kết quả là, nghèo đói “có thể mang nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như việc ám ảnh giảm chi phí lao động mà không quan tâm đến những hậu quả nghiêm trọng của nó, vì tình trạng thất nghiệp do nó trực tiếp tạo ra dẫn đến việc lan rộng nghèo đói.”[61] Trong số những “tác động tàn phá của đế chế tiền tệ,”[62] cần phải thừa nhận rằng “không có nghèo đói nào tồi tệ hơn nghèo đói tước đi công việc và phẩm giá của công việc.”[63] Hơn nữa, nếu một số người được sinh ra ở một đất nước hoặc gia đình nơi họ có ít cơ hội để phát triển, thì chúng ta nên thừa nhận rằng điều này trái với phẩm giá của họ, vốn là phẩm giá tương tự như phẩm giá của những người sinh ra trong một gia đình hoặc đất nước giàu có. Tất cả chúng ta đều chịu trách nhiệm về sự bất bình đẳng khốc liệt này, mặc dù ở các mức độ khác nhau.
Chiến Tranh
- Một bi kịch khác xâm phạm đến phẩm giá con người, cả trong quá khứ và hiện tại, chính là chiến tranh: “Chiến tranh, các cuộc tấn công khủng bố, ngược đãi chủng tộc hay tôn giáo, và nhiều hành vi khác xúc phạm đến phẩm giá con người […] ‘đã trở nên quá phổ biến đến mức cấu thành một ‘cuộc chiến tranh thế giới thứ ba’ thực sự được tiến hành từng phần.’”[64] Với những tàn tích hủy diệt và đau khổ kéo theo, chiến tranh tấn công vào phẩm giá con người trong cả ngắn hạn và dài hạn: “Trong khi tái khẳng định quyền bất khả xâm phạm về tự vệ và trách nhiệm bảo vệ những người có mạng sống bị đe dọa, chúng ta phải thừa nhận rằng chiến tranh luôn là ‘sự thất bại của nhân loại.’ Không cuộc chiến nào đáng để một người mẹ phải rơi nước mắt vì nhìn thấy con mình bị tàn tật hoặc bị giết hại; không cuộc chiến nào đáng để đánh đổi mạng sống của một con người, một con người thiêng liêng được tạo ra theo hình ảnh và giống như Đấng Tạo Hóa; không cuộc chiến nào đáng để đầu độc ngôi nhà chung của chúng ta; và không cuộc chiến nào đáng để khiến những người buộc phải rời bỏ quê hương và bị tước đoạt, trong chốc lát, khỏi nhà cửa và tất cả các mối quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội và văn hóa đã được xây dựng, đôi khi qua nhiều thế hệ.”[65] Tất cả các cuộc chiến, chỉ vì bản chất mâu thuẫn với phẩm giá con người, đều là “những cuộc xung đột không giải quyết được vấn đề mà chỉ làm chúng thêm trầm trọng.”[66] Điều này thậm chí còn quan trọng hơn trong thời đại chúng ta, khi việc có quá nhiều thường dân vô tội thiệt mạng ngoài chiến trường đã trở thành điều bình thường.
- Do đó, ngay cả ngày nay, Giáo Hội không thể không tự mình nói lên những lời của các Giáo Hoàng, lặp lại cùng với Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI: “jamais plus la guerre, jamais plus la guerre!” [“không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa, không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa!”].[67] Hơn nữa, cùng với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội cầu xin “nhân danh Thiên Chúa và nhân danh con người: Đừng giết chóc! Đừng chuẩn bị hủy diệt và tàn sát con người! Hãy nghĩ đến những anh chị em đang phải chịu đựng cảnh đói khát và khổ sở! Hãy tôn trọng phẩm giá và tự do của mỗi người!”[68] Bây giờ cũng như trước đây, đây chính là tiếng kêu của Giáo Hội và của toàn nhân loại. Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh điều này bằng cách tuyên bố, “Chúng ta không thể coi chiến tranh là giải pháp nữa vì những rủi ro của nó có lẽ sẽ luôn lớn hơn những lợi ích nó mang lại. Do đó, ngày nay, rất khó để viện dẫn các tiêu chí hợp lý được xây dựng trong những thế kỷ trước để nói về khả năng của một ‘cuộc chiến tranh chính nghĩa.’ Không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa!”[69] Vì nhân loại thường lặp lại những sai lầm tương tự của quá khứ, nên “để biến hòa bình thành hiện thực, chúng ta phải thoát khỏi logic của tính chính đáng của chiến tranh.”[70] Mối quan hệ mật thiết giữa đức tin và phẩm giá con người cho thấy việc chiến tranh dựa trên niềm tin tôn giáo sẽ là mâu thuẫn: “Kẻ nào kêu gọi danh nghĩa Thiên Chúa để biện minh cho khủng bố, bạo lực và chiến tranh thì không đi theo con đường của Thiên Chúa. Chiến tranh nhân danh tôn giáo trở thành cuộc chiến chống lại chính tôn giáo đó.”[71]
Nỗi Gian Truân của Người Di Cư
- Người di cư là một trong những nạn nhân đầu tiên của nhiều hình thức nghèo đói. Không chỉ phẩm giá của họ bị chối bỏ ở quê hương,[72] mà cuộc sống của họ còn bị đe dọa vì không còn có đủ phương tiện để xây dựng gia đình, làm việc hay nuôi sống bản thân.[73] Một khi đã đến được các quốc gia đáng lẽ có thể đón nhận họ, "người di cư không được nhìn nhận là có quyền tham gia vào đời sống xã hội như những người khác, và người ta quên rằng họ cũng có phẩm giá nội tại như bất kỳ người nào khác. [...] Sẽ không ai công khai phủ nhận rằng họ là con người; nhưng trên thực tế, qua các quyết định của chúng ta và cách chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể cho thấy rằng chúng ta coi họ kém giá trị, kém quan trọng và kém nhân văn hơn."[74] Do đó, việc nhắc nhở rằng "mỗi người di cư là một con người, và với tư cách đó, họ có các quyền cơ bản, bất khả xâm phạm mà mọi người phải tôn trọng trong mọi hoàn cảnh"[75] là một việc cấp bách. Đón nhận người di cư là một cách quan trọng và có ý nghĩa để bảo vệ "phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người, bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo."[76]
Nạn Buôn Người
- Nạn buôn người cũng phải được xếp vào số các vi phạm nghiêm trọng xâm phạm đến phẩm giá con người.[77] Mặc dù đây không phải là hiện tượng mới, nhưng nó đã mang những chiều kích bi thảm trước mắt chúng ta, đó là lý do Đức Giáo hoàng Phanxicô đã lên án nó một cách đặc biệt mạnh mẽ: "Tôi xin khẳng định lại ở đây rằng 'buôn bán người' là một hoạt động đê hèn, là một sự ô nhục cho các xã hội tự nhận là văn minh! Những kẻ bóc lột và khách hàng ở mọi cấp độ phải nghiêm túc xét mình trước mặt Chúa! Ngày nay, Giáo Hội đang làm mới lời kêu gọi khẩn thiết rằng phẩm giá và vị trí trung tâm của mỗi cá nhân phải luôn được bảo vệ, với sự tôn trọng các quyền cơ bản, như giáo huấn xã hội của Giáo Hội nhấn mạnh. Giáo Hội yêu cầu các quyền này thực sự được mở rộng cho hàng triệu người nam người nữ trên mọi lục địa, ở bất cứ nơi nào chúng không được công nhận. Trong một thế giới nói nhiều về quyền lợi, phẩm giá con người lại thường xuyên bị chà đạp! Trong một thế giới nói quá nhiều về quyền lợi, có vẻ như thứ duy nhất có quyền là tiền bạc."[78]
- Vì những lý do này, Giáo Hội và nhân loại không được ngừng đấu tranh chống lại các hiện tượng như "buôn bán các cơ quan và mô người, bóc lột tình dục trẻ em trai và gái, lao động nô lệ, bao gồm cả mại dâm, buôn ma túy và vũ khí, khủng bố, và tội phạm có tổ chức quốc tế. Quy mô của những tình huống này, và cái giá phải trả bằng mạng sống của những người vô tội, đến mức chúng ta phải tránh mọi cám dỗ sa vào chủ nghĩa duy danh theo quan điểm tuyên bố nhằm xoa dịu lương tâm của mình. Chúng ta cần phải đảm bảo rằng các tổ chức của chúng ta thực sự hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả những tai ương này."[79] Đối mặt với những sự phủ nhận đa dạng và tàn bạo về phẩm giá con người, chúng ta cần ngày càng ý thức rằng "buôn người là một tội ác chống lại nhân loại."[80] Về cơ bản, nó phủ nhận phẩm giá con người theo ít nhất hai cách: "Nạn buôn người làm biến dạng sâu sắc nhân tính của nạn nhân, xúc phạm đến tự do và phẩm giá của họ. Tuy nhiên, đồng thời, làm cho những người thực hiện hành vi đó trở nên thiếu nhân tính."[81]
Lạm Dụng Tình Dục
- Phẩm giá sâu sắc vốn có trong con người toàn bộ tâm trí và thể xác cũng cho phép chúng ta hiểu tại sao mọi hình thức lạm dụng tình dục đều để lại những vết sẹo sâu trong lòng những người phải chịu đựng nó. Thật vậy, những người bị lạm dụng tình dục trải qua những vết thương thực sự trong phẩm giá con người của họ. Đây là "những đau khổ có thể kéo dài cả đời và không sự hối hận nào có thể bù đắp được. Hiện tượng này đang lan rộng trong xã hội và nó cũng ảnh hưởng đến Giáo Hội, tạo thành một trở ngại nghiêm trọng cho sứ mạng của Giáo Hội."[82] Từ đó, Giáo Hội không ngừng nỗ lực chấm dứt mọi hình thức lạm dụng, bắt đầu từ bên trong.
Bạo lực chống lại phụ nữ
44. Bạo lực chống lại phụ nữ là một vấn nạn toàn cầu đang ngày càng được chú ý. Mặc dù phẩm giá bình đẳng của phụ nữ có thể được công nhận bằng lời nói, nhưng sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới ở một số quốc gia vẫn còn rất nghiêm trọng. Ngay cả ở những quốc gia phát triển và dân chủ nhất, thực tế xã hội cụ thể cũng cho thấy rằng phụ nữ thường không được coi trọng như nam giới. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh điều này khi ngài khẳng định rằng "Tổ chức của các xã hội trên toàn thế giới vẫn còn xa mới phản ánh rõ ràng rằng phụ nữ sở hữu cùng phẩm giá và quyền bình đẳng với nam giới. Chúng ta nói một đằng bằng lời, nhưng quyết định và thực tế của chúng ta lại kể một câu chuyện khác. Thật vậy, 'những người phụ nữ phải chịu đựng các tình huống bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực thì còn chịu nhiều đau khổ hơn nữa vì cảnh nghèo', vì họ thường ít khả năng bảo vệ quyền của mình hơn." [83]
45. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận ra rằng "vẫn còn nhiều việc phải làm để ngăn chặn sự phân biệt đối xử với những người đã chọn làm vợ và làm mẹ. […] Cần phải đạt được sự bình đẳng thực sự trong mọi lĩnh vực: tiền lương bình đẳng cho công việc bình đẳng, bảo vệ bà mẹ đi làm, công bằng trong thăng tiến nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng về quyền gia đình và công nhận tất cả những gì thuộc về quyền và nghĩa vụ của công dân trong một nhà nước dân chủ." [84]Thật vậy, sự bất bình đẳng trong những lĩnh vực này cũng là những hình thức bạo lực khác nhau. Ngài cũng nhắc lại rằng "đã đến lúc phải lên án mạnh mẽ các loại bạo lực tình dục thường lấy phụ nữ làm đối tượng và ban hành luật pháp để bảo vệ họ một cách hiệu quả khỏi những bạo lực đó. Chúng ta cũng không thể không lên án, nhân danh sự tôn trọng đối với con người, nền văn hóa hưởng lạc và thương mại phổ biến khuyến khích bóc lột tình dục một cách có hệ thống và làm cho ngay cả những cô gái rất trẻ cũng bị tha hóa để cơ thể của họ được sử dụng vì lợi nhuận." [85]Trong số các hình thức bạo lực đối với phụ nữ, làm sao chúng ta không thể đề cập đến phá thai cưỡng bức, ảnh hưởng đến cả mẹ và con, thường là để thỏa mãn sự ích kỷ của nam giới? Và làm sao chúng ta không thể đề cập đến tục đa thê? Như Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta, đa thê trái với phẩm giá bình đẳng của phụ nữ và nam giới; nó cũng "trái với tình yêu vợ chồng là duy nhất và không bị chia cắt." [86]
46. Trong việc xem xét vấn đề bạo lực chống lại phụ nữ này, người ta không thể lên án đủ hiện tượng giết hại phụ nữ hay trẻ em gái chỉ vì giới tính của họ là nữ. Trên mặt trận này, toàn thể cộng đồng quốc tế phải có một cam kết phối hợp và cụ thể, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc lại, "Tình yêu của chúng ta dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta cảm nhận được sự trân trọng và biết ơn đối với phụ nữ, đối với những người mẹ và người bà của chúng ta, những người là thành trì trong cuộc sống ở các thành phố của chúng ta. Hầu như luôn luôn trong im lặng, họ mang theo sự sống về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của hy vọng. Cảm ơn các bạn vì lời chứng của các bạn. […] Nhưng khi nghĩ về mẹ và bà của chúng ta, tôi muốn mời các bạn chống lại một tai họa đang ảnh hưởng đến lục địa châu Mỹ: vô số trường hợp phụ nữ bị giết hại. Và nhiều tình huống bạo lực được giữ kín sau vô số bức tường. Tôi yêu cầu các bạn hãy chiến đấu chống lại nguồn gốc của sự đau khổ này bằng cách kêu gọi luật pháp và một nền văn hóa lên án mọi hình thức bạo lực." [87]
Phá thai
47. Giáo hội luôn nhắc nhở chúng ta rằng "phẩm giá của mỗi con người mang tính chất nội tại và có hiệu lực từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Chính sự khẳng định phẩm giá như vậy là điều kiện tiên quyết không thể tước đoạt để bảo vệ sự tồn tại cá nhân và xã hội, đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để tình huynh đệ và tình bạn xã hội được thực hiện giữa tất cả các dân tộc trên trái đất." [88] Vì giá trị vô hình của sự sống con người, Giáo huấn của Giáo hội luôn lên tiếng phản đối phá thai. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: "Trong số tất cả các tội ác có thể được thực hiện chống lại sự sống, phá thai theo ý muốn có những đặc điểm khiến nó đặc biệt nghiêm trọng và đáng chê trách. [...] Nhưng ngày nay, trong lương tâm của nhiều người, nhận thức về mức độ nghiêm trọng của nó đã dần dần bị che mờ. Việc chấp nhận phá thai trong suy nghĩ, hành vi và thậm chí cả luật pháp đều là dấu hiệu cho thấy một cuộc khủng hoảng cực kỳ nguy hiểm về ý thức đạo đức, vốn ngày càng trở nên không có khả năng phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản của sự sống đang bị đe dọa. Trước tình trạng nghiêm trọng như vậy, bây giờ chúng ta cần hơn bao giờ hết phải có lòng can đảm để nhìn thẳng sự thật và gọi đúng tên mọi thứ, không khuất phục trước những thỏa hiệp thuận tiện hoặc sự cám dỗ tự lừa dối bản thân. Về vấn đề này, lời trách móc của vị Ngôn sứ vô cùng thẳng thắn: 'Khốn cho những kẻ gọi điều ác là thiện và điều thiện là ác, kẻ biến bóng tối thành ánh sáng và ánh sáng thành bóng tối' (Is 5:20). Đặc biệt trong trường hợp phá thai, thuật ngữ mơ hồ được sử dụng rộng rãi, chẳng hạn như 'ngừng thai nghén', có xu hướng che giấu bản chất thực sự của phá thai và giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của nó trong dư luận. Có lẽ chính hiện tượng ngôn ngữ này là một triệu chứng của sự bất an trong lương tâm. Nhưng không một từ nào có sức mạnh thay đổi thực tế của sự việc: phá thai theo ý muốn là việc giết người có chủ ý và trực tiếp, bằng bất kỳ phương tiện nào được thực hiện, đối với một con người trong giai đoạn đầu của sự tồn tại, kéo dài từ khi thụ thai đến khi sinh ra." [89] Do đó, những đứa trẻ chưa chào đời là "những người yếu thế và vô tội nhất trong chúng ta. Ngày nay, người ta đang cố gắng phủ nhận phẩm giá con người của chúng và muốn làm bất cứ điều gì mình thích với chúng, tước đoạt mạng sống của chúng và ban hành luật pháp ngăn cản bất kỳ ai cản đường việc này." [90] Vì vậy, cần phải tuyên bố một cách dứt khoát và rõ ràng, ngay cả trong thời đại chúng ta, rằng "sự bảo vệ này đối với sự sống của thai nhi gắn liền chặt chẽ với việc bảo vệ mọi quyền con người khác. Nó liên quan đến niềm tin rằng một con người luôn thiêng liêng và bất khả xâm phạm, trong bất kỳ tình huống nào và ở mọi giai đoạn phát triển. Con người là mục đích cho chính mình và không bao giờ là phương tiện để giải quyết các vấn đề khác. Một khi niềm tin này biến mất, nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng biến mất, vốn luôn phụ thuộc vào những ý thích nhất thời của những kẻ đang nắm quyền. Chỉ riêng lý trí đã đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm của mỗi cá nhân, nhưng nếu chúng ta cũng nhìn nhận vấn đề từ quan điểm đức tin, thì 'mọi sự vi phạm phẩm giá cá nhân của con người đều kêu lên báo thù với Thiên Chúa và là một sự xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa của cá nhân đó.'" [91] Trong bối cảnh này, điều đáng nhớ là sự cống hiến cao cả và dũng cảm của Thánh Teresa Calcutta trong việc bảo vệ dành cho mọi người được thụ thai.
Mang thai hộ
48. Giáo hội cũng lên tiếng phản đối việc mang thai hộ khiến đứa trẻ vô cùng quý giá trở thành một vật dụng đơn thuần. Về vấn đề này, lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có sự rõ ràng độc đáo: "Con đường dẫn đến hòa bình kêu gọi tôn trọng sự sống, đối với mọi sự sống của con người, bắt đầu từ sự sống của đứa trẻ chưa chào đời trong bụng mẹ, không thể bị dập tắt hoặc biến thành đối tượng buôn bán. Về vấn đề này, tôi cho rằng việc thực hành cái gọi là mang thai hộ là đáng chê trách, nó đại diện cho sự vi phạm nghiêm trọng đến phẩm giá của người phụ nữ và trẻ em, dựa trên việc lợi dụng tình trạng khó khăn về vật chất của người mẹ. Con cái luôn là món quà và không bao giờ là cơ sở của một hợp đồng thương mại. Do đó, tôi bày tỏ hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực cấm đoán việc thực hành này trên toàn thế giới." [92]
49. Trước hết, việc mang thai hộ vi phạm đến phẩm giá của trẻ em. Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều sở hữu một phẩm giá vô hình được thể hiện rõ ràng - mặc dù theo cách độc đáo và khác biệt - ở mọi giai đoạn của cuộc đời: từ lúc thụ thai, khi sinh ra, lớn lên thành nam hay nữ, và trưởng thành. Bởi vì phẩm giá bất khả xâm phạm này, trẻ em có quyền có nguồn gốc hoàn toàn của con người (và không được tạo ra một cách giả tạo) và được nhận ơn huệ của cuộc sống thể hiện cả phẩm giá của người cho và người nhận. Hơn nữa, việc thừa nhận phẩm giá của con người cũng bao hàm việc nhìn nhận mọi khía cạnh của phẩm giá của hôn nhân và việc sinh sản của con người. Xét cho cùng, mong muốn chính đáng để có con không thể biến thành "quyền có con" mà không tôn trọng phẩm giá của đứa trẻ đó với tư cách là người nhận món quà của sự sống. [93]
50. Mang thai hộ cũng vi phạm đến phẩm giá của người phụ nữ, cho dù cô ấy bị ép buộc hoặc tự do lựa chọn. Bởi vì, trong thực hành này, người phụ nữ bị tách khỏi đứa trẻ đang lớn lên trong bụng mình và trở thành một phương tiện phục vụ cho lợi ích hoặc ham muốn tùy tiện của người khác. Điều này hoàn toàn trái ngược với phẩm giá cơ bản của mỗi con người và quyền của mỗi người được công nhận luôn là cá nhân và không bao giờ là công cụ cho người khác.
Trợ tử và Tự tử có hỗ trợ
51. Có một trường hợp đặc biệt về vi phạm phẩm giá diễn ra âm thầm nhưng đang nhanh chóng lan rộng. Nó độc biệt ở cách nó sử dụng một cách hiểu sai lầm về phẩm giá con người để biến khái niệm phẩm giá chống lại chính sự sống. Sự nhầm lẫn này đặc biệt rõ ràng ngày nay trong các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề trợ tử. Ví dụ, luật pháp cho phép trợ tử hoặc tự tử có hỗ trợ đôi khi được gọi là "hành vi qua đời trong phẩm giá". Với điều này, có một quan niệm phổ biến rằng trợ tử hoặc tự tử có hỗ trợ bằng cách nào đó phù hợp với sự tôn trọng phẩm giá của con người. Tuy nhiên, để đáp lại điều này, cần phải nhấn mạnh một cách mạnh mẽ rằng đau khổ không khiến người bệnh mất đi phẩm giá vốn là của riêng họ một cách nội tại và không thể tước đoạt. Thay vào đó, đau khổ có thể trở thành cơ hội để củng cố các mối liên kết thuộc về lẫn nhau và nâng cao nhận thức về giá trị quý giá của mỗi người đối với toàn thể gia đình nhân loại.
52. Chắc chắn, phẩm giá của những người bị bệnh nặng hoặc bệnh nan y đòi hỏi mọi nỗ lực thích hợp và cần thiết để giảm bớt sự đau đớn của họ thông qua chăm sóc giảm nhẹ thích hợp và tránh các phương pháp điều trị tích cực hoặc các thủ thuật y tế không tương xứng. Cách tiếp cận này tương ứng với "trách nhiệm lâu dài trong việc đánh giá các nhu cầu của người bệnh: nhu cầu chăm sóc, giảm đau, và các nhu cầu tình cảm và tinh thần."[94] Tuy nhiên, nỗ lực như vậy hoàn toàn khác biệt - và thực sự trái ngược - với quyết định kết thúc mạng sống của bản thân hoặc của người khác bị gánh nặng bởi đau khổ. Ngay cả trong hoàn cảnh bi thương, cuộc sống con người vẫn mang một phẩm giá phải luôn được duy trì, không bao giờ có thể bị mất đi, và đòi hỏi sự tôn trọng vô điều kiện. Thật vậy, không có hoàn cảnh nào mà cuộc sống con người sẽ không còn đáng tôn trọng và do đó có thể bị chấm dứt: "Mỗi cuộc đời đều có giá trị và phẩm giá như nhau đối với mọi người: sự tôn trọng cuộc sống của người khác cũng giống như sự tôn trọng cho cuộc sống của chính mình."[95] Do đó, giúp đỡ người tự tử tước lấy mạng sống của chính họ là một sự xúc phạm khách quan đến phẩm giá của người yêu cầu điều đó, ngay cả khi người ta làm vậy là để hoàn thành mong muốn của họ: "Chúng ta phải đồng hành với con người đến lúc chết, nhưng không được kích động cái chết hay tạo điều kiện cho bất kỳ hình thức tự tử nào. Hãy nhớ rằng quyền được chăm sóc và điều trị cho tất cả mọi người phải luôn được ưu tiên để những người yếu nhất, đặc biệt là người cao tuổi và người bệnh, không bao giờ bị từ chối. Sống là quyền, không phải cái chết, phải được chào đón chứ không phải được ban hành. Và nguyên tắc đạo đức này liên quan đến tất cả mọi người, không chỉ người Kitô hữu hay người có niềm tin."[96] Như đã đề cập ở trên, phẩm giá của mỗi người, dù yếu đuối hay bị đè nặng bởi đau khổ đến đâu, đều hàm ý phẩm giá của tất cả chúng ta.
Đẩy những người khuyết tật ra bên lề
53. Một tiêu chí để xác minh liệu phẩm giá của mỗi cá nhân trong xã hội có được quan tâm thực sự hay không là sự giúp đỡ dành cho những người yếu thế nhất. Đáng tiếc, thời đại chúng ta không nổi tiếng về sự quan tâm như vậy; đúng hơn, một nền “văn hóa vứt bỏ” đang ngày càng áp đặt chính nó [97]. Để chống lại xu hướng này, tình trạng của những người gặp phải hạn chế về thể chất hoặc tinh thần cần được quan tâm và chăm sóc đặc biệt. Những tình trạng dễ bị tổn thương nghiêm trọng như vậy [98] - xuất hiện nổi bật trong các Phúc Âm - đặt ra những câu hỏi phổ quát về ý nghĩa của việc làm người, đặc biệt bắt đầu từ tình trạng khuyết tật hoặc tàn tật. Vấn đề về sự không hoàn hảo của con người cũng mang những hàm ý văn hóa - xã hội rõ ràng vì một số nền văn hóa có xu hướng đẩy những người khuyết tật ra bên lề hoặc thậm chí đàn áp họ, coi họ là “phế phẩm”. Tuy nhiên, sự thật là mỗi con người, bất kể họ có những điểm yếu dễ bị tổn thương nào, phẩm giá của họ đều bắt nguồn từ việc họ được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương. Do đó, mọi nỗ lực nên được thực hiện để khuyến khích sự hòa nhập và tham gia tích cực của những người bị tàn tật hoặc khuyết tật vào đời sống xã hội và Giáo hội.[99]
54. Trong một viễn cảnh rộng hơn, cần phải nhớ rằng “lòng bác ái này, là cốt lõi tinh thần của chính trị, luôn luôn là tình yêu ưu tiên dành cho những người cần nhất; nó củng cố mọi thứ chúng ta làm vì họ. […] ‘Chăm sóc những người cần thiết phải có sức mạnh và lòng nhân ái, nỗ lực và sự quảng đại giữa một tư duy thực dụng và tư nhân hóa không thể tránh khỏi dẫn đến một‘ văn hóa vứt bỏ ’[…]. Nó liên quan đến việc chịu trách nhiệm về hiện tại với những tình huống bị loại trừ và đau khổ tột cùng, và có khả năng mang lại phẩm giá cho nó. ’ Tương tự, nó cũng sẽ truyền cảm hứng cho những nỗ lực mạnh mẽ để đảm bảo rằng ‘mọi thứ được thực hiện để bảo vệ vị thế và phẩm giá của con người’. ”[100]
Lý thuyết về Giới tính
55. Trước hết, Giáo hội mong muốn “tái khẳng định rằng mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục, đều phải được tôn trọng phẩm giá của mình và được đối xử với sự quan tâm, trong khi ‘mọi dấu hiệu của sự phân biệt đối xử bất công’ cần được cẩn thận tránh.”[101] Vì lý do này, cần lên án việc vi phạm phẩm giá con người khi mà ở một số nơi, không ít người bị bỏ tù, tra tấn và thậm chí bị tước đoạt quyền sống chỉ vì khuynh hướng tình dục của họ.
56. Đồng thời, Giáo hội nhấn mạnh những vấn đề then chốt có tính phê phán hiện hữu trong lý thuyết về giới. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng “con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi sự tôn trọng nhân quyền, phù hợp với cách diễn đạt đơn giản nhưng rõ ràng ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, mà chúng ta kỷ niệm 75 năm ngày ra tuyên ngôn này. Những nguyên tắc này là hiển nhiên và được chấp nhận phổ biến. Đáng tiếc thay, trong những thập kỷ gần đây, đã có những nỗ lực để đưa ra các quyền mới, không hoàn toàn phù hợp với những quyền được xác định ban đầu và không phải lúc nào cũng được chấp nhận. Chúng đã dẫn đến những trường hợp thuộc địa hóa ý thức hệ, trong đó lý thuyết về giới đóng vai trò trung tâm; lý thuyết này cực kỳ nguy hiểm vì nó xóa bỏ sự khác biệt nhằm mục đích bình đẳng cho tất cả mọi người.”[102]
57. Đối với lý thuyết về giới, với tính nhất quán khoa học đang là chủ đề tranh luận đáng kể giữa các chuyên gia, Giáo hội nhắc lại rằng đời sống con người trong tất cả các chiều kích, cả thể chất lẫn tinh thần, đều là ơn ban của Thiên Chúa. Ơn ban này cần được chấp nhận với lòng biết ơn và phục vụ cho điều thiện. Việc mong muốn tự quyết định bản thân, như lý thuyết về giới quy định, tách biệt khỏi sự thật cơ bản rằng đời sống con người là một ơn ban, đồng nghĩa với việc nhượng bộ trước cám dỗ cũ kỹ là tự biến mình thành Thiên Chúa, cạnh tranh với Thiên Chúa đích thực của tình yêu được mặc khải cho chúng ta trong Phúc Âm.
58. Một khía cạnh nổi bật khác của lý thuyết về giới là nó nhằm phủ nhận sự khác biệt lớn nhất có thể tồn tại giữa các sinh vật sống: sự khác biệt về giới tính. Sự khác biệt cơ bản này không chỉ là sự khác biệt lớn nhất mà còn là sự khác biệt đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Trong cặp vợ chồng nam nữ, sự khác biệt này đạt được sự hỗ trợ lẫn nhau tuyệt vời nhất. Do đó, nó trở thành nguồn gốc của điều kỳ diệu không bao giờ ngừng làm chúng ta ngạc nhiên: sự xuất hiện của những con người mới trên thế giới.
59. Theo nghĩa này, việc tôn trọng cả bản thân và người khác là điều quan trọng trước sự gia tăng các tuyên bố về quyền mới do lý thuyết về giới đưa ra. Hệ tư tưởng này “dự kiến một xã hội không có sự khác biệt về giới tính, do đó loại bỏ nền tảng nhân học của gia đình.”[103] Do đó, không thể chấp nhận được rằng “một số hệ tư tưởng thuộc loại này, nhằm đáp ứng những nguyện vọng đôi khi dễ hiểu, lại khẳng định mình là tuyệt đối và không thể nghi ngờ, thậm chí còn chi phối cách nuôi dạy trẻ em. Cần nhấn mạnh rằng ‘giới tính sinh học và vai trò xã hội - văn hóa của giới tính có thể được phân biệt nhưng không thể tách rời.’”[104] Do đó, mọi nỗ lực che khuất tham chiếu đến sự khác biệt giới tính không thể loại bỏ giữa nam và nữ đều phải bị bác bỏ: “Chúng ta không thể tách rời nam tính và nữ tính khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, điều này ưu tiên hơn tất cả các quyết định và kinh nghiệm của chúng ta, và nơi tồn tại các yếu tố sinh học không thể bỏ qua.”[105] Chỉ bằng cách thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt này trong sự hỗ trợ lẫn nhau, mỗi người mới có thể khám phá ra bản thân, phẩm giá và căn tính của mình một cách trọn vẹn.
Chuyển Đổi Giới Tính
60. Phẩm giá của thân thể không thể được coi là thấp hơn phẩm giá của con người. Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo minh nhiên mời gọi chúng ta nhìn nhận rằng “thân thể con người chia sẻ phẩm giá của ‘hình ảnh Thiên Chúa.’”[106] Sự thật ấy đáng được ghi nhớ, đặc biệt khi nói đến việc chuyển đổi giới tính, vì con người được cấu thành không thể tách rời bởi cả thể xác và linh hồn. Trong vấn đề này, thân thể đóng vai trò như bối cảnh sống động nơi nội tâm của linh hồn được hé lộ và thể hiện, cũng như thông qua mạng lưới các mối quan hệ giữa người với người. Cấu thành bản thể con người, cả linh hồn và thân thể đều tham gia vào phẩm giá đặc trưng của mỗi người.[107] Hơn nữa, thân thể tham gia vào phẩm giá đó vì nó được phú cho những ý nghĩa cá nhân, đặc biệt là trong tình trạng giới tính của nó.[108] Chính trong thân thể mà mỗi người nhận ra mình được sinh ra bởi người khác, và thông qua thân thể của họ, nam nữ có thể thiết lập một mối quan hệ yêu thương có khả năng sinh ra những người khác. Dạy về sự cần thiết phải tôn trọng trật tự tự nhiên của con người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định rằng “sự sáng tạo có trước chúng ta và phải được đón nhận như một ơn ban. Đồng thời, chúng ta được kêu gọi bảo vệ tính nhân văn của mình, và điều này có nghĩa là, trước hết, chấp nhận và tôn trọng nó như nó được tạo ra.”[109] Do đó, bất kỳ can thiệp đổi giới tính nào, theo quy định, đều có nguy cơ đe dọa đến phẩm giá độc nhất mà con người nhận được ngay từ khi thụ thai. Điều này không loại trừ khả năng một người có bất thường về cơ quan sinh dục, vốn đã có sẵn ngay từ khi sinh ra hoặc phát triển sau này, có thể lựa chọn nhận sự hỗ trợ của các chuyên gia y tế để giải quyết những bất thường này. Tuy nhiên, trong trường hợp này, một thủ thuật y tế như vậy sẽ không cấu thành việc đổi giới tính theo nghĩa được đề cập ở đây.
Bạo lực Kỹ thuật số
61. Mặc dù sự tiến bộ của công nghệ kỹ thuật số có thể mang lại nhiều khả năng để thúc đẩy phẩm giá con người, nhưng nó cũng ngày càng có xu hướng tạo ra một thế giới mà sự bóc lột, loại trừ và bạo lực gia tăng, thậm chí mở rộng đến mức gây hại cho phẩm giá của con người. Ví dụ, hãy xem xét việc thông qua những phương tiện này, việc bôi nhọ danh tiếng của một người bằng tin tức giả và phỉ báng dễ dàng như thế nào. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng “Không lành mạnh chút nào khi nhầm lẫn truyền thông với sự tiếp xúc ảo đơn thuần. Thật vậy, ‘môi trường kỹ thuật số cũng là môi trường của sự cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, thậm chí đến trường hợp cực đoan của ‘mạng tối’. Truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người dễ bị nghiện, cô lập và dần dần mất liên lạc với thực tế, cản trở sự phát triển các mối quan hệ giữa cá nhân chân thật. Các dạng bạo lực mới đang lan truyền qua mạng xã hội, ví dụ như bắt nạt trên mạng. Internet cũng là kênh để lan truyền nội dung khiêu dâm và bóc lột con người vì mục đích tình dục hoặc thông qua cờ bạc.’”[110] Bằng cách này, một cách nghịch lý, càng có nhiều cơ hội kết nối phát triển trong lĩnh vực này, thì con người càng thấy mình bị cô lập và nghèo nàn trong các mối quan hệ giữa người với người: “Truyền thông kỹ thuật số muốn phơi bày tất cả mọi thứ ra; cuộc sống của mọi người bị soi mói, phơi bày và loan báo, thường là ẩn danh. Sự tôn trọng người khác tan rã, và ngay cả khi chúng ta xa lánh, phớt lờ hoặc giữ người khác cách xa, chúng ta có thể không biết xấu hổ khi dòm ngó vào mọi chi tiết trong cuộc sống của họ.”[111] Những khuynh hướng như vậy đại diện cho một mặt tối của tiến bộ kỹ thuật số.
62. Theo góc nhìn này, nếu công nghệ phục vụ cho phẩm giá con người chứ không gây hại cho nó, và nếu nó thúc đẩy hòa bình thay vì bạo lực, thì cộng đồng nhân loại cần phải chủ động giải quyết những xu hướng này liên quan đến phẩm giá con người và thúc đẩy điều thiện: “Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, ‘giới truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần nhau hơn, tạo ra ý thức về sự thống nhất của gia đình nhân loại, từ đó có thể truyền cảm hứng cho tình đoàn kết và những nỗ lực nghiêm túc để đảm bảo một cuộc sống phẩm giá hơn cho tất cả mọi người. […] Giới truyền thông có thể giúp chúng ta rất nhiều trong việc này, đặc biệt là ngày nay, khi các mạng lưới truyền thông của con người đã đạt được những tiến bộ chưa từng có. Đặc biệt, internet mang lại những khả năng to lớn cho việc gặp gỡ và đoàn kết. Đây thực sự là một điều tốt lành, một ơn ban của Thiên Chúa.’ Chúng ta cần liên tục đảm bảo rằng các hình thức truyền thông hiện đại thực sự đang hướng dẫn chúng ta đến những cuộc gặp gỡ quảng đại với tha nhân, đến việc theo đuổi chân thành toàn bộ sự thật, đến việc phục vụ, đến sự gần gũi với những người thiệt thòi và thúc đẩy lợi ích chung.”[112]
Kết luận
63. Vào dịp kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền được ban hành (1948), Đức Giáo Hoàng Phanxicô tái khẳng định rằng tài liệu này “giống như một bản kế hoạch tổng thể, từ đó nhiều bước đã được thực hiện, nhưng nhiều bước khác vẫn cần được thực hiện, và thật không may, đôi khi, những bước lùi lại đã được thực hiện. Cam kết về nhân quyền không bao giờ kết thúc! Về vấn đề này, tôi luôn đồng hành với tất cả những ai, không ồn ào, trong cuộc sống thường nhật cụ thể, đấu tranh và tự mình trả giá cho việc bảo vệ quyền lợi của những người không được coi trọng.”[113]
64. Với tinh thần này, Giáo hội, với Tuyên bố này, tha thiết thúc giục việc tôn trọng phẩm giá của con người vượt qua mọi hoàn cảnh cần được đặt vào trung tâm của cam kết vì lợi ích chung và là trung tâm của mọi hệ thống pháp luật. Thật vậy, tôn trọng phẩm giá của mỗi người là nền tảng không thể thiếu cho sự tồn tại của bất kỳ xã hội nào tuyên bố được thành lập trên nền tảng luật pháp công bằng chứ không phải trên sức mạnh của quyền lực. Việc thừa nhận phẩm giá con người tạo thành nền tảng để duy trì các quyền cơ bản của con người, những quyền này đi trước và làm nền tảng cho mọi sự chung sống của công dân.[114]
65. Mỗi cá nhân và cả cộng đồng nhân loại đều có trách nhiệm trong việc cụ thể hóa và thực hiện phẩm giá con người. Trong khi đó, các quốc gia không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ phẩm giá con người mà còn phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để phẩm giá đó phát triển trong quá trình thúc đẩy toàn diện con người: “Trong hoạt động chính trị, chúng ta nên nhớ rằng ‘bất chấp vẻ bề ngoài, mỗi người đều vô cùng thánh thiện và đáng được chúng ta yêu thương và cống hiến.’”[115]
66. Ngay cả ngày nay, trước vô vàn vi phạm phẩm giá con người đang đe dọa nghiêm trọng đến tương lai của gia đình nhân loại, Giáo hội vẫn khuyến khích việc thúc đẩy phẩm giá của mỗi cá nhân, bất kể đặc điểm thể chất, tinh thần, văn hóa, xã hội và tôn giáo của họ. Giáo hội làm điều này với hy vọng, tin tưởng vào sức mạnh tuôn ra từ Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã hoàn toàn tiết lộ phẩm giá trọn vẹn của mỗi người nam và nữ. Sự chắc chắn này trở thành lời kêu gọi trong những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô hướng đến mỗi người chúng ta: “Tôi kêu gọi mọi người trên toàn thế giới đừng quên phẩm giá vốn thuộc về chúng ta. Không ai có quyền tước đoạt nó khỏi chúng ta.” [116]
**Đức Thánh Cha Phanxicô, trong buổi tiếp kiến dành cho Hồng y Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin, cùng với Thư ký Ủy Ban Giáo lý của Thánh Bộ, vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, đã phê chuẩn Tuyên bố này, được quyết định tại Phiên họp Thường kỳ của Thánh Bộ vào ngày 28 tháng 2 năm 2024, và ngài ra lệnh công bố. **
Được ban hành tại Rôma, tại Bộ Giáo lý Đức Tin, vào ngày 2 tháng 4 năm 2024, kỷ niệm 19 năm ngày qua đời của Đức Giáo Hoàng Thánh Gioan Phaolô II.
Hồng y Víctor Manuel Card. Fernández
Tổng trưởng
Msgr. Armando Matteo
Thư ký Phòng Giáo lý
[1] John Paul II, Angelus in the Cathedral of Osnabrück (16 November 1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1232.
[2] Francis, Apostolic Exhortation Laudate Deum (4 October 2023), no. 39: L’Osservatore Romano (4 October 2023), III.
[3] In 1948, the United Nations adopted the Universal Declaration of Human Rights, which consists of thirty articles. The word “dignity” appears there five times, in strategic places: in the first words of the Preamble and in the first sentence of Article One. This dignity is declared to be “inherent in all members of the human family” (Preamble) and “all human beings are born free and equal in dignity and rights” (Article 1).
[4] Paying attention only to the modern era, we see how the Church has progressively accentuated the importance of human dignity. The theme was particularly developed in Pope Leo XIII’s Encyclical Rerum Novarum (1891), Pope Pius XI’s Encyclical Quadragesimo Anno (1931) and Pope Pius XII’s Address to the Congress of the Italian Catholic Union of Midwives (1951). The Second Vatican Council, then, developed this issue, devoting an entire document to the subject with the Declaration Dignitatis Humanae (1965) and discussing human freedom in the Pastoral Constitution Gaudium et Spes (1965).
[5] Paul VI, General Audience (4 September 1968): Insegnamenti VI (1968), 886.
[6] John Paul II, Address to the Third General Conference of the Latin American Episcopate (28 January 1979), III.1-2: Insegnamenti II/1 (1979), 202-203.
[7] Benedict XVI, Address to Participants in the General Assembly of the Pontifical Academy for Life (13 February 2010): Insegnamenti VI/1 (2011), 218.
[8] Benedict XVI, Address to Participants in the Meeting of the Development Bank of the Council of Europe (12 June 2010): Insegnamenti VI/1 (2011), 912-913.
[9] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 178: AAS 105 (2013), 1094; quoting John Paul II, Angelus in the Cathedral of Osnabrück (16 November 1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1232.
[10] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 8: AAS 112 (2020), 971.
[11] Ibid., no. 277: AAS 112 (2020), 1069.
[12] Ibid., no. 213: AAS 112 (2020), 1045.
[13] Ibid., no. 213: AAS 112 (2020), 1045; quoting Id., Message to Participants in the International Conference “Human Rights in the Contemporary World: Achievements, Omissions, Negations” (10 December 2018): L’Osservatore Romano, (10-11 December 2018), 8.
[14] The 1948 UN Declaration was followed and further elaborated by the 1966 UN International Covenant on Civil and Political Rights and the 1975 Helsinki Final Act of the Conference on Security and Cooperation in Europe.
[15] Cf. International Theological Commission, Dignity and Rights of the Human Person (1983), Introduction, 3. A compendium of Catholic teaching on human dignity can be found in the Catechism of the Catholic Church, in the chapter entitled, “The Dignity of the Human Person,” nos. 1700-1876.
[16] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 22: AAS 112 (2020), 976.
[17] Boethius, Contra Eutychen et Nestorium, c. 3: PL 64, 1344: “persona est rationalis naturae individua substantia.” Cf. Bonaventure, In I Sent., d. 25, a. 1, q. 2; Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q. 29, a. 1, resp.
[18] Since it is not the purpose of this Declaration to draw up an exhaustive treatise on the notion of dignity, for the sake of brevity, only the so-called classical Greek and Roman culture is mentioned here as an example, as the point of reference for early Christian philosophical and theological reflection.
[19] For example, see Cicero, De Officiis I, 105-106: “Sed pertinet ad omnem officii quaestionem semper in promptu habere, quantum natura hominis pecudibus reliquisque beluis antecedat […] Atque etiam si considerare volumus, quae sit in natura excellentia et dignitas, intellegemus, quam sit turpe diffluere luxuria et delicate ac molliter vivere quamque honestum parce, continenter, severe, sobrie” (Id., Scriptorum Latinorum Bibliotheca Oxoniensis, ed. M. Winterbottom, Oxford 1994, 43). In English translation: “But it is essential to every inquiry about duty that we keep before our eyes how far superior man is by nature to cattle and other beasts […] And if we will only bear in mind the superiority and dignity of our nature, we shall realize how wrong it is to abandon ourselves to excess and to live in luxury and voluptuousness, and how right it is to live in thrift, self-denial, simplicity, and sobriety” (Id., On Duties, tr. W. Miller, Loeb Classical Library 30, Harvard University Press, Cambridge 1913, 107-109).
[20] Cf. Paul VI, Address to the Pilgrimage to the Holy Land: Visit to the Basilica of the Annunciation in Nazareth (5 January 1964): AAS 56 (1964), 166-170.
[21] For example, see Clement of Rome, 1 Clem. 33, 4f: PG 1, 273; Theophilus of Antioch, Ad Aut. I, 4: PG 6, 1029; Clement of Alexandria, Strom. III, 42, 5-6: PG 8, 1145; Ibid., VI, 72, 2: PG 9, 293; Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. V, 6, 1: PG 7, 1137-1138; Origen, De princ. III, 6, 1: PG 11, 333; Augustine, De Gen. ad litt. VI, 12: PL 34, 348; De Trinitate XIV, 8, 11: PL 42, 1044-1045.
[22] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 29, a. 3, resp.: «persona significat id, quod est perfectissimum in tota natura, scilicet subsistens in rationali natura».
[23] Cf. Giovanni Pico della Mirandola and his well-known text, Orartio de Hominis Dignitate (1486).
[24] For a Jewish thinker, such as E. Levinas (1906-1995), the human being is qualified by his freedom insofar as he discovers himself as infinitely responsible for another human being.
[25] Some great Christian thinkers of the nineteenth and twentieth centuries—such as St. J.H. Newman, Bl. A. Rosmini, J. Maritain, E. Mounier, K. Rahner, H.‑U. von Balthasar, and others—have succeeded in proposing a vision of the human person that can validly dialogue with all the currents of thought present in the early twenty-first century, whatever their inspiration, even Postmodernism.
[26] This is why the “Universal Declaration of Human Rights […] implicitly suggests that the source of inalienable human rights is found in the dignity of every human person” (International Theological Commission, In Search of a Universal Ethics: A New Look at the Natural Law [2009], no. 115).
[27] Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes (7 December 1965), no. 26: AAS 58 (1966), 1046. The entire first chapter of the first part of the Pastoral Constitution (nos. 11-22) is devoted to the “Dignity of the Human Person.”
[28] Second Vatican Ecumenical Council, Declaration Dignitatis Humanae (7 December 1965), no. 1: AAS 58 (1966), 929.
[29] Ibid., no. 2: AAS 58 (1966), 931.
[30] Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Dignitas Personae (8 September 2008), no. 7: AAS 100 (2008), 863. Cf. also Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. V, 16, 2: PG 7, 1167-1168.
[31] Since “by his Incarnation, the Son of God has united himself in a certain way with every man,” the dignity of every man is revealed to us by Christ in its fullness (Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes [7 December 1965], no. 22: AAS 58 [1966], 1042).
[32] Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes (7 December 1965), no. 19: AAS 58 (1966), 1038.
[33] John Paul II, Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), no. 38: AAS 87 (1995), 443, quoting Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. IV, 20, 7: PG 7, 1037-1038.
[34] Indeed, Christ has given the baptized a new dignity, that of being “sons of God”: cf. Catechism of the Catholic Church, nos. 1213, 1265, 1270, 1279.
[35] Second Vatican Ecumenical Council, Declaration Dignitatis Humanae (7 December 1965), no. 9: AAS 58 (1966), 935.
[36] Cf. Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. V, 6, 1. V, 8, 1. V, 16, 2: PG 7, 1136-1138. 1141-1142. 1167-1168; John Damascene, De fide orth. 2, 12: PG 94, 917-930.
[37] Benedict XVI, Address at Westminster Hall (17 September 2010): Insegnamenti VI/2 (2011), 240.
[38] Francis, General Audience (12 August 2020): L’Osservatore Romano (13 August 2020), 8; quoting John Paul II, Address to the United Nations General Assembly (2 October 1979), 7 and Id., Address to the United Nations General Assembly (5 October 1995), 2.
[39] Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Dignitas Personae (8 September 2008), no. 8: AAS 100 (2008), 863-864.
[40] International Theological Commission, Religious Freedom for the Good of All (2019), no. 38.
[41] Cf. Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See for the Presentation of New Year’s Greetings (8 January 2024): L’Osservatore Romano (8 January 2024), 3.
[42] John Paul II, Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), no. 19: AAS 87 (1995), 422.
[43] Francis, Encyclical Letter Laudato Si’ (24 May 2015), no. 69: AAS 107 (2015), 875; quoting Catechism of the Catholic Church, no. 339.
[44] Francis, Apostolic Exhortation Laudate Deum (4 October 2023), no. 67: L’Osservatore Romano (4 October 2023), IV.
[45] Ibid., no. 63: L’Osservatore Romano (4 October 2023), IV.
[46] Catechism of the Catholic Church, no. 1730.
[47] Benedict XVI, Message for the Celebration of the 44th World Day of Peace (1 January 2011), no. 3: Insegnamenti VI/2 (2011), 979.
[48] Pontifical Council for Justice and Peace, Compendium of the Social Doctrine of the Church, no. 137.
[49] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 109: AAS 112 (2020), 1006.
[50] Pontifical Council for Justice and Peace, Compendium of the Social Doctrine of the Church, no. 137.
[51] Francis, Address to Participants in the World Meeting of Popular Movements (28 October 2014): AAS 106 (2014), 858.
[52] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 107: AAS 112 (2020), 1005-1006.
[53] Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes (7 December 1965), no. 27: AAS 58 (1966), 1047.
[54] Ibid.
[55] Ibid.
[56] Cf. Catechism of the Catholic Church, no. 2267, and Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to Bishops Regarding the New Revision of Number 2267 of the Catechism of the Catholic Church on the Death Penalty (1 August 2018), nos. 7-8.
[57] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 269: AAS 112 (2020), 1065.
[58] John Paul II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), no. 28: AAS 80 (1988), 549.
[59] Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), no. 22: AAS 101 (2009), 657, quoting Paul VI, Encyclical Letter Populorum Progressio (26 March 1967), no. 9: AAS 59 (1967), 261-262.
[60] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 21: AAS 112 (2020), 976; quoting Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), no. 22: AAS 101 (2009), 657.
[61] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 20: AAS 112 (2020), 975-976. Cf. also the “Prayer to the Creator” at the end of this encyclical.
[62] Ibid., no. 116: AAS 112 (2020), 1009; quoting Francis, Address to Participants in the World Meeting of Popular Movements (28 October 2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[63] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 162: AAS 112 (2020), 1025; quoting Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See (12 January 2015): AAS 107 (2015), 165.
[64] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 25: AAS 112 (2020), 978; quoting Francis, Message for the 2016 World Day of Peace (1 January 2016): AAS 108 (2016), 49.
[65] Francis, Message to Participants in the Sixth Edition of the “Forum de Paris sur la Paix” (10 November 2023): L’Osservatore Romano (10 November 2023), 7; quoting Id., General Audience (23 March 2022): L’Osservatore Romano (23 March 2022), 3.
[66] Francis, Address to the Conference of Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change (COP 28) (2 December 2023): L’Osservatore Romano (2 December 2023), 2.
[67] Cf. Paul VI, Address to the United Nations (4 October 1965): AAS 57 (1965), 881.
[68] John Paul II, Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), no. 16: AAS 71 (1979), 295.
[69] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 258: AAS 112 (2020), 1061.
[70] Francis, Address to the Security Council of the United Nations (14 June 2023): L’Osservatore Romano (15 June 2023), 8.
[71] Francis, Address on the World Day of Prayer for Peace (20 September 2016): L’Osservatore Romano (22 September 2016), 5.
[72] Cf. Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 38: AAS 112 (2020), 983: “For this reason, ‘there is also a need to reaffirm the right not to emigrate, that is, to remain in one’s homeland’”; quoting Benedict XVI, Message for the 99th World Day Migrants and Refugees (12 October 2012): AAS 104 (2012), 908.
[73] Cf. Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 38: AAS 112 (2020), 982-983.
[74] Ibid., no. 39: AAS 112 (2020), 983.
[75] Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), no. 62: AAS 101 (2009), 697.
[76] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 39: AAS 112 (2020), 983.
[77] We might recall here Pope Paul III’s declaration on the dignity of those people found in the lands of the “New World” in the Bull Pastorale Officium (29 May 1537), where the Holy Father established—under penalty of excommunication—that the inhabitants of those territories, “even if outside the bosom of the Church, are not […] to be deprived, of their freedom or the ownership of their goods, for they are men and, therefore, capable of faith and salvation” («licet extra gremium Ecclesiae existant, non tamen sua libertate, aut rerum suarum dominio […] privandos esse, et cum homines, ideoque fidei et salutis capaces sint»): DH 1495.
[78] Francis, Address to Participants in the Plenary of the Pontifical Council for the Pastoral Care of Migrants and Itinerant People (24 May 2013): AAS 105 (2013), 470-471.
[79] Francis, Address to the United Nations Organization, New York (25 September 2015): AAS 107 (2015), 1039.
[80] Francis, Address to New Ambassadors Accredited to the Holy See on the Occasion of the Presentation of the Letters of Credence (12 December 2013): L’Osservatore Romano (13 December 2013), 8.
[81] Francis, Address to Participants in the International Conference on Human Trafficking (11 April 2019): AAS 111 (2019), 700.
[82] XV Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, Final Document (27 October 2018), no. 29.
[83] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 23: AAS 112 (2020), 977, quoting Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 212: AAS 105 (2013), 1108.
[84] John Paul II, Letter to Women (29 June 1995), no. 4: Insegnamenti XVIII/1 (1997), 1874.
[85] Ibid., no. 5: Insegnamenti XVIII/1 (1997), 1875.
[86] Catechism of the Catholic Church, no. 1645.
[87] Francis, Address on the Occasion of the Marian Celebration – Our Lady of the Gate (20 January 2018): AAS 110 (2018), 329.
[88] Francis, Address to the Participants in the Plenary Assembly of the Congregation for the Doctrine of the Faith (21 January 2022): L’Osservatore Romano (21 January 2022), 8.
[89] John Paul II, Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), no. 58: AAS 87 (1995) 466-467. On the subject of the respect due to human embryos, see Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Donum Vitae (22 February 1987): “The practice of keeping alive human embryos in vivo or in vitro for experimental or commercial purposes is totally opposed to human dignity” (I, 4): AAS 80 (1988), 82.
[90] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 213: AAS 105 (2013), 1108.
[91] Ibid.
[92] Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See (8 January 2024): L’Osservatore Romano (8 January 2024), 3.
[93] Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Dignitas Personae (8 September 2008), no. 16: AAS 100 (2008), 868-869. All these aspects are recalled in the then-Congregation’s Instruction Donum Vitae (22 February 1987): AAS 80 (1988), 71-102.
[94] Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter Samaritanus Bonus (14 July 2020), V, no. 4: AAS 112 (2020), 925.
[95] Cf. Ibid., V, no. 1: AAS 112 (2020), 919.
[96] Francis, General Audience (9 February 2022): L’Osservatore Romano (9 February 2022), 3.
[97] See especially Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), nos. 18-21: AAS 112 (2020), 975-976: “A ‘Throwaway’ World.” No. 188 of the same Encyclical goes so far as to identify a “throwaway culture.”
[98] Cf. Francis, Address to Participants in the Conference Organized by the Pontifical Council for Promoting the New Evangelization (21 October 2017): L’Osservatore Romano (22 October 2017), 8: “Vulnerability is intrinsic to the essential nature of the human person.”
[99] Cf. Francis, Message for the International Day of Persons with Disabilities (3 December 2020): AAS 112 (2020), 1185-1188.
[100] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), nos. 187-188: AAS 112 (2020), 1035-1036; cf. Id., Address to the European Parliament, Strasbourg (25 November 2014): AAS 106 (2014), 999, and Id., Address at the Meeting with Authorities and the Diplomatic Corps in the Central African Republic, Bangui (29 November 2015): AAS 107 (2015), 1320.
[101] Francis, Post-Synodal Apostolic Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), no. 250: AAS 108 (2016), 412-413; quoting Catechism of the Catholic Church, no. 2358.
[102] Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See for the Presentation of New Year’s Greetings (8 January 2024): L’Osservatore Romano (8 January 2024), 3.
[103] Francis, Apostolic Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), no. 56: AAS 108 (2016), 334.
[104] Ibid.; quoting Fourteenth Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, Relatio Finalis (24 October 2015), 58.
[105] Ibid., no. 286: AAS 108 (2016), 425.
[106] Catechism of the Catholic Church, no. 364.
[107] This also applies to the respect due to the bodies of the deceased; for example, see Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Ad Resurgendum cum Christo (15 August 2016), no. 3: AAS 108 (2016), 1290: “By burying the bodies of the faithful, the Church confirms her faith in the resurrection of the body, and intends to show the great dignity of the human body as an integral part of the human person whose body forms part of their identity.” More generally, see also International Theological Commission, Current Problems of Eschatology (1990), no. 5: “People Called to Resurrection.”
[108] Cf. Francis, Encyclical Letter Laudato si’ (24 May 2015), no. 155: AAS 107 (2015), 909.
[109] Francis, Apostolic Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), no. 56: AAS 108 (2016), 344.
[110] Francis, Post-Synodal Apostolic Exhortation Christus Vivit (25 March 2019), no. 88: AAS 111 (2019), 413, quoting the XV Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, Final Document (27 October 2018), no. 23.
[111] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 42: AAS 112 (2020), 984.
[112] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 205: AAS 112 (2020), 1042; quoting Id., Message for the 48th World Communications Day (24 January 2014): AAS 106 (2014), 113.
[113] Francis, Angelus (10 December 2023): L’Osservatore Romano (11 December 2023), 12.
[114] Cf. International Theological Commission, Propositions on the Dignity and Rights of the Human Person (1983), no. 2.
[115] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 195: AAS 112 (2020), 1038, quoting Id., Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 274: AAS 105 (2013), 1130.
[116] Francis, Encyclical Letter Laudato si’ (24 May 2015), no. 205: AAS 107 (2015), 928.
Tuyên bố
“Dignitas Infinita”
về Phẩm Giá Con Người
Tuyên bố của Bộ Giáo lý Đức tin
Ban hành ngày 08.04.2024.
Bản dịch của Giuse Vũ Đức Trung, CSsR
Trình bày
Trong Đại hội ngày 15 tháng 3 năm 2019, Thánh Bộ Giáo lý Đức tin khi đó đã quyết định bắt đầu “soạn thảo một văn bản nêu bật tính chất không thể thiếu của phẩm giá con người trong nhân học Kitô giáo và minh họa tầm quan trọng và các hàm ý hữu ích của khái niệm này trong các lĩnh vực xã hội, chính trị và kinh tế - đồng thời cũng tính đến những phát triển mới nhất về chủ đề này trong giới học thuật và những cách hiểu không nhất quán về khái niệm này trong bối cảnh ngày nay". Một bản thảo đầu tiên của văn bản đã được chuẩn bị với sự giúp đỡ của một số chuyên gia vào năm 2019, nhưng một cuộc Tham vấn Consulta Ristretta của Thánh Bộ, được triệu tập vào ngày 8 tháng 10 cùng năm, cho rằng bản thảo này không đạt yêu cầu.
Sau đó, Văn phòng Giáo lý đã chuẩn bị thêm một dự thảo mới, dựa trên sự đóng góp của nhiều chuyên gia khác nhau, đã được trình bày và thảo luận trong một cuộc Tham Vấn Consulta Ristretta được tổ chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2021. Vào tháng 1 năm 2022, dự thảo mới đã được trình bày trong Phiên họp toàn thể của Thánh bộ, trong đó các Thành viên đã thực hiện các bước để rút ngắn và đơn giản hóa văn bản.
Sau đó, vào ngày 6 tháng 2 năm 2023, phiên bản sửa đổi của dự thảo mới đã được một Ủy Ban Tham Vấn xem xét, cơ quan này đã đề xuất một số sửa đổi bổ sung. Một phiên bản cập nhật đã được đệ trình để các Thành viên xem xét trong Phiên họp thường vụ của Thánh Bộ (Feria IV) vào ngày 3 tháng 5 năm 2023, tại đó các Thành viên đã đồng ý rằng tài liệu, với một số điều chỉnh, có thể được xuất bản. Sau đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê duyệt các nghị quyết của phiên họp đó trong Cuộc Tiếp Kiến dành cho tôi vào ngày 13 tháng 11 năm 2023. Nhân dịp này, ngài cũng yêu cầu tài liệu nêu bật các chủ đề liên quan chặt chẽ đến chủ đề phẩm giá, chẳng hạn như nghèo đói, tình trạng của người di cư, bạo lực đối với phụ nữ, nạn buôn người, chiến tranh và các chủ đề khác. Để thực hiện những chỉ dẫn của Đức Thánh Cha, Ban Giáo lý của Thánh Bộ đã dành một Congresso để nghiên cứu chuyên sâu về Thông điệp Fratelli Tutti, trong đó đưa ra một phân tích độc đáo và xem xét thêm về chủ đề phẩm giá con người “vượt trên mọi hoàn cảnh.”
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2024, một phiên bản mới và được sửa đổi đáng kể của văn bản này đã được gửi đến các Thành viên của Thánh Bộ trước Phiên họp thường vụ (Feria IV) vào ngày 28 tháng 2 năm 2024. Bức thư đi kèm dự thảo bao gồm nội dung làm rõ sau đây: “Bản thảo bổ sung này là cần thiết để đáp ứng một yêu cầu cụ thể của Đức Thánh Cha: cụ thể, ngài đã kêu gọi rõ ràng rằng hãy chú ý nhiều hơn đến những vi phạm nghiêm trọng phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, đặc biệt là dưới ánh sáng của Thông điệp Fratelli Tutti. Với điều này, Văn phòng Giáo lý đã thực hiện các bước để giảm phần ban đầu […] và phát triển chi tiết hơn những gì Đức Thánh Cha đã chỉ ra. ” Bản văn của Tuyên ngôn hiện tại cuối cùng đã được phê duyệt trong phiên họp Feria IV nêu trên vào ngày 28 tháng 2 năm 2024. Sau đó, trong buổi Tiếp kiến dành cho tôi và cho Đức Ông Armando Matteo, Bí thư Ban Giáo lý, vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, Đức Thánh Cha đã chấp thuận Tuyên ngôn này và ra lệnh cho công bố.
Quá trình chuẩn bị văn bản kéo dài 5 năm giúp chúng ta hiểu rằng tài liệu trước mắt phản ánh tầm quan trọng và tính trung tâm của chủ đề phẩm giá trong tư tưởng Kitô giáo. Văn bản đòi hỏi một quá trình trưởng thành đáng kể để đi đến phiên bản cuối cùng mà chúng tôi xuất bản hôm nay.
Trong ba phần đầu tiên, Tuyên bố nhắc lại các nguyên tắc cơ bản và các tiền đề lý thuyết, với mục tiêu đưa ra những làm rõ quan trọng có thể giúp tránh sự nhầm lẫn thường xuyên xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “phẩm giá”. Phần thứ tư trình bày một số tình huống hiện tại và có vấn đề, trong đó phẩm giá vô cùng cao quý và bất khả xâm phạm đối với mọi người không được công nhận đầy đủ. Giáo Hội coi việc lên án những vi phạm nghiêm trọng và hiện tại đối với phẩm giá con người là một biện pháp cần thiết, vì Giáo Hội duy trì niềm tin sâu sắc rằng chúng ta không thể tách rời đức tin với việc bảo vệ phẩm giá con người, truyền giáo khỏi việc thúc đẩy một cuộc sống có phẩm giá, và đời sống thiêng liêng khỏi sự cam kết đối với phẩm giá của mọi người.
Phẩm giá của mỗi con người có thể được hiểu là “vô hạn” (dignitas infinita), như ĐTC Gioan Phaolô II đã khẳng định trong một cuộc họp cho những người sống với những hạn chế hoặc khuyết tật khác nhau. [1] Ngài nói điều này để cho thấy phẩm giá con người vượt lên trên mọi vẻ bề ngoài và những khía cạnh cụ thể trong cuộc sống của con người.
Trong Thông điệp Fratelli Tutti, ĐTC Phanxicô muốn nhấn mạnh rằng phẩm giá này tồn tại “vượt trên mọi hoàn cảnh”. Với điều này, ngài đã kêu gọi tất cả mọi người bảo vệ phẩm giá con người trong mọi bối cảnh văn hóa và mọi thời điểm của sự tồn tại của con người, bất kể những khiếm khuyết về thể chất, tâm lý, xã hội, hay thậm chí là đạo đức. Tuyên ngôn cố gắng chỉ ra rằng đây là một sự thật phổ quát mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi để công nhận như một điều kiện cơ bản để các xã hội của chúng ta trở nên thực sự công bằng, hòa bình, lành mạnh và xứng đáng là con người.
Mặc dù không toàn diện, các chủ đề được thảo luận trong Tuyên ngôn này được lựa chọn để làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của phẩm giá con người có thể bị lu mờ trong ý thức của nhiều người. Một số chủ đề có thể gây được tiếng vang ở một số tầng lớp xã hội hơn những tầng lớp khác. Tuy nhiên, tất cả đều gây ấn tượng đối với chúng tôi như là điều cần thiết bởi vì, khi được kết hợp với nhau, chúng giúp chúng ta nhận ra sự hài hòa và phong phú của tư tưởng về phẩm giá con người bắt nguồn từ Tin Mừng.
Tuyên ngôn không nhằm mục đích trình bày trọn vẹn một chủ đề phong phú và quan trọng như vậy. Thay vào đó, mục đích của nó là đưa ra một số điểm để suy ngẫm có thể giúp chúng ta duy trì nhận thức về phẩm giá con người giữa thời khắc lịch sử phức tạp mà chúng ta đang sống. Điều này để chúng ta không lạc lối và mở lòng mình ra với nhiều vết thương và đau khổ sâu sắc hơn giữa vô vàn lo lắng và lo âu của thời đại.
Hồng y Víctor Manuel Fernández
Tổng trưởng
Giới Thiệu
- (Dignitas infinita) Mỗi con người đều sở hữu phẩm giá vô hạn, được đặt nền tảng bất khả xâm phạm trong chính bản thể của họ, phẩm giá này vượt lên trên và vượt qua mọi hoàn cảnh, tình trạng hoặc tình huống mà người đó có thể gặp phải. Nguyên tắc này, hoàn toàn có thể nhận ra ngay cả chỉ bằng lý trí, là nền tảng cho sự ưu tiên của con người và việc bảo vệ quyền con người. Dưới ánh sáng của Mặc khải, Giáo hội kiên quyết nhắc lại và khẳng định phẩm giá bản thể của con người, được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, được cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô. Từ chân lý này, Giáo hội rút ra lý do cho cam kết của mình đối với những người yếu thế và những người thiệt thòi hơn về quyền lực, luôn nhấn mạnh “sự ưu tiên dành cho con người và bảo vệ phẩm giá của họ vượt lên trên mọi hoàn cảnh.” [2]
- Phẩm giá bản thể này cùng giá trị độc đáo và cao quý của mỗi người nam và người nữ trên thế giới đã được tái khẳng định một cách đầy uy quyền trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ban hành vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. [3] Khi chúng ta kỷ niệm 75 năm ngày ra đời của văn kiện đó, Giáo hội thấy đây là cơ hội để tuyên bố lại niềm tin của mình rằng tất cả mọi người — được Thiên Chúa tạo dựng và được cứu chuộc bởi Đức Kitô — phải được công nhận và được đối xử với sự tôn trọng và tình yêu thương xứng đáng với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Lễ kỷ niệm này cũng tạo cơ hội cho Giáo hội làm rõ một số quan niệm sai lầm thường gặp liên quan đến phẩm giá con người và đề cập đến một số vấn đề nghiêm trọng và cấp bách có liên quan.
- Ngay từ khi bắt đầu sứ mệnh của mình và được Tin Mừng thúc đẩy, Giáo hội đã nỗ lực để khẳng định tự do của con người và thúc đẩy quyền lợi của tất cả mọi người. [4] Trong thời gian gần đây, nhờ tiếng nói của các Đức Giáo hoàng, Giáo hội đã có nỗ lực hình thành cam kết này một cách rõ ràng hơn thông qua lời kêu gọi đổi mới việc công nhận phẩm giá cơ bản vốn có trong mỗi người. Về điểm này, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI khẳng định rằng “không có quan điểm nhân học nào sánh bằng quan điểm của Giáo hội về con người — đặc biệt là về tính độc đáo, phẩm giá, tính bất khả xâm phạm và sự phong phú của các quyền cơ bản của người đó, sự thiêng liêng, khả năng giáo dục, khát vọng phát triển toàn diện, và sự bất tử.” [5]
- Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Hội nghị Chung Lần thứ Ba của các Giám mục Châu Mỹ Latinh và Caribê ở Puebla năm 1979, đã khẳng định rằng phẩm giá con người là “một giá trị Tin Mừng không thể bị khinh thường mà không xúc phạm nặng nề đến Đấng Tạo Hóa. Phẩm giá này bị xâm phạm ở cấp độ cá nhân khi các giá trị như tự do, quyền được tuyên xưng tôn giáo của mình, sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần, quyền được hưởng các nhu yếu phẩm thiết yếu, quyền được sự sống không được coi trọng. Nó bị xâm phạm ở cấp độ xã hội và chính trị khi con người không thể thực hiện quyền tham gia của mình, hoặc khi họ phải chịu sự cưỡng bức bất công và phi pháp, hoặc phải chịu tra tấn thể xác hoặc tinh thần, v.v. […] Nếu Giáo hội hiện diện trong việc bảo vệ, hoặc thúc đẩy phẩm giá con người, thì Giáo Hội thực hiện điều đó phù hợp với sứ mệnh của mình, mặc dù nó mang tính tôn giáo chứ không phải xã hội hay chính trị, nhưng không thể bỏ qua việc xem xét con người trong toàn bộ bản thể của họ.” [6]
- Sau đó, vào năm 2010, phát biểu tại Học viện Giáo hoàng về Sự sống, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI tuyên bố rằng phẩm giá con người là “một nguyên tắc nền tảng mà đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại đã luôn bảo vệ, đặc biệt là khi, đối với những người đơn sơ và không có khả năng tự vệ nhất, nó bị coi thường.” [7] Vào một dịp khác, khi nói chuyện với các nhà kinh tế học, ngài tuyên bố rằng “kinh tế và tài chính không tồn tại vì lợi ích của chính chúng; chúng chỉ là một công cụ hoặc phương tiện. Mục đích duy nhất của chúng là con người và sự viên mãn toàn diện của con người trong phẩm giá. Đây là nguồn vốn duy nhất, và cần phải bảo vệ [nó].” [8]
- Ngay từ đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô đã mời gọi Giáo hội “tin vào một người Cha, Đấng yêu thương tất cả mọi người với một tình yêu vô hạn, nhận ra rằng “Ngài đã ban cho họ một phẩm giá vô hạn”. [9] Ngài mạnh mẽ nhấn mạnh rằng phẩm giá to lớn như vậy là một yếu tố khởi nguyên (điều đã được ban cho) cần được thừa nhận một cách trung thành và được đón nhận với lòng biết ơn. Dựa trên sự nhìn nhận và chấp nhận phẩm giá con người này, một sự đồng hành mới giữa mọi người có thể được thiết lập, phát triển các mối quan hệ xã hội trong bối cảnh tình huynh đệ thực sự. Thật vậy, chỉ bằng cách “thừa nhận phẩm giá của mỗi con người”, chúng ta mới “đóng góp vào sự tái sinh của một khát vọng phổ quát về tình huynh đệ.” [10] Đức Phanxicô khẳng định rằng “nguồn gốc của nhân phẩm và tình huynh đệ là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô,” [11] nhưng ngay cả lý trí của con người cũng có thể đi đến niềm tin này thông qua suy tư và đối thoại vì “phẩm giá của người khác phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh, không phải vì phẩm giá đó là thứ chúng ta phát minh hoặc tưởng tượng, mà bởi vì con người sở hữu một giá trị nội tại vượt trội hơn các đối tượng vật chất và các tình huống phụ thuộc. Điều này đòi hỏi họ phải được đối xử khác biệt. Rằng mọi người đều sở hữu phẩm giá bất khả xâm phạm là một chân lý tương ứng với bản chất con người ngoài mọi sự thay đổi văn hóa." [12] Đức Phanxicô kết luận, “con người có cùng phẩm giá bất khả xâm phạm trong mọi thời đại của lịch sử, và không ai có thể tự cho mình là người được phép vì những tình huống cụ thể mà phủ nhận niềm tin này hoặc hành động chống lại nó. ” [13] Xét từ góc độ này, thông điệp Fratelli Tutti của Đức Giáo hoàng Phanxicô, tạo thành một loại “Magna Carta” (giải thích của người dịch: Magna Carta- Hiến chương vĩ đại) về các nhiệm vụ đương thời của chúng ta nhằm bảo vệ và thúc đẩy phẩm giá con người.
Một sự phân biệt cơ bản
- Ngày nay, nhiều người đồng ý về tầm quan trọng và phạm vi quy chuẩn của phẩm giá con người cũng như giá trị độc đáo và siêu việt của mỗi con người. [14] Tuy nhiên, cụm từ "phẩm giá của con người" có nguy cơ bị hiểu theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến những những sự mơ hồ tiềm ẩn [15] và "những mâu thuẫn khiến chúng ta tự hỏi liệu phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người […] có thực sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thăng tiến trong mọi tình huống hay không." [16] Điều này khiến chúng ta nhận ra khả năng phân biệt bốn khía cạnh của khái niệm phẩm giá: phẩm giá bản thể, phẩm giá đạo đức, phẩm giá xã hội và phẩm giá hiện sinh. Quan trọng nhất trong số này là phẩm giá bản thể thuộc về một con người chỉ đơn giản vì người đó tồn tại và được Thiên Chúa mong muốn, tạo dựng và yêu thương. Phẩm giá bản thể là không thể xóa nhòa và luôn có giá trị vượt lên trên mọi hoàn cảnh mà con người có thể gặp phải. Khi nói về phẩm giá đạo đức, chúng ta đề cập đến cách con người thực hiện quyền tự do của mình. Mặc dù con người được phú cho lương tâm, nhưng họ luôn có thể hành động trái lại với nó. Tuy nhiên, làm như vậy, họ sẽ hành xử theo cách “không xứng đáng” đối với bản chất của mình là những tạo vật được Thiên Chúa yêu thương và được kêu gọi để yêu thương người khác. Tuy nhiên, khả năng này luôn tồn tại đối với quyền tự do của con người, và lịch sử minh họa cách các cá nhân — khi thực thi tự do của họ chống lại luật yêu thương được mặc khải bởi Tin Mừng — có thể thực hiện những hành vi tội ác vô cùng nghiêm trọng chống lại người khác. Những người hành động theo cách này dường như đã đánh mất mọi dấu vết của nhân tính và phẩm giá. Đây là nơi mà sự phân biệt hiện tại có thể giúp chúng ta phân biệt giữa phẩm giá đạo đức trên thực tế có thể bị “mất đi” và phẩm giá bản thể không bao giờ có thể bị hủy bỏ. Và chính vì điểm thứ hai này mà chúng ta phải làm việc hết sức mình để tất cả những ai đã làm điều ác đều có thể ăn năn và hoán cải.
- Còn hai khía cạnh khác của phẩm giá cần xem xét: xã hội và hiện sinh. Khi nói về phẩm giá xã hội, chúng ta đề cập đến chất lượng điều kiện sống của một người. Ví dụ, trong các trường hợp nghèo đói cùng cực, khi các cá nhân thậm chí không có những thứ tối thiểu cần thiết để sống theo phẩm giá bản thể của họ, người ta nói rằng những người nghèo đó đang sống trong một hoàn cảnh “không xứng đáng.” Cách diễn đạt này không ngụ ý phán xét những cá nhân đó nhưng nêu bật tình trạng mà họ buộc phải sống mâu thuẫn với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Ý nghĩa cuối cùng là phẩm giá hiện sinh, đây là loại phẩm giá được ngụ ý trong cuộc thảo luận ngày càng tăng về cuộc sống “xứng đáng” và một cuộc sống “không xứng đáng”. Ví dụ, trong khi một số người dường như không thiếu bất cứ điều gì cần thiết cho cuộc sống, nhưng vì nhiều lý do, họ vẫn có thể phải vật lộn để sống với sự bình an, niềm vui và hy vọng. Trong các tình huống khác, sự hiện diện của các bệnh hiểm nghèo, môi trường gia đình bạo lực, các chứng nghiện ngập và các khó khăn khác có thể khiến mọi người cảm nhận điều kiện sống của họ “không xứng đáng” so với nhận thức của họ về phẩm giá bản thể không bao giờ có thể bị che khuất. Những sự phân biệt này nhắc nhở chúng ta về giá trị bất khả xâm phạm của phẩm giá bản thể có gốc rễ trong chính bản thể của con người trong mọi hoàn cảnh.
- Cuối cùng, cần đề cập đến định nghĩa cổ điển về một nhân vị như một “bản thể cá thể có bản tính lý tính” [17] làm rõ ràng nền tảng của phẩm giá con người. Là một “bản thể cá nhân”, con người sở hữu phẩm giá bản thể (tức là ở cấp độ siêu hình của chính sự hiện hữu). Đã nhận được sự tồn tại từ Thiên Chúa, con người là những chủ thể "tồn tại độc lập" - nghĩa là họ thực hiện sự hiện hữu của mình một cách tự chủ. Thuật ngữ "lý tính" bao gồm tất cả các năng lực của con người, bao gồm năng lực biết và hiểu, cũng như năng lực muốn, yêu, chọn và khát khao; nó cũng bao gồm tất cả các chức năng của cơ thể có liên quan mật thiết đến các năng lực này. "Bản tính" đề cập đến các điều kiện đặc biệt đối với chúng ta với tư cách là con người, cho phép các hoạt động khác nhau của chúng ta và những trải nghiệm đặc trưng cho chúng; Theo nghĩa này, bản tính là “nguyên lý hành động”. Chúng ta không tạo ra bản tính của mình; chúng ta giữ nó như một ơn ban và chúng ta có thể nuôi dưỡng, phát triển và nâng cao khả năng của mình. Bằng cách thực thi tự do để trau dồi các giá trị của bản tính, chúng ta sẽ phát triển theo thời gian. Ngay cả khi một người không thể thực thi các năng lực này do các hạn chế hoặc điều kiện khác nhau, tuy nhiên người đó vẫn luôn tồn tại như một “bản thể cá nhân” với phẩm giá toàn vẹn và bất khả xâm phạm. Điều này áp dụng, chẳng hạn, đối với một đứa trẻ chưa sinh ra, một người bất tỉnh hoặc một người già đau khổ.
- Nhận thức ngày càng cao về vị trí trung tâm của phẩm giá con người
- Ngay từ thời cổ đại,[18] trực giác về phẩm giá con người đã nảy sinh từ góc độ xã hội, coi mỗi người được trao một phẩm giá đặc biệt dựa trên cấp bậc và địa vị của họ trong một trật tự đã được thiết lập. Bắt nguồn từ phạm vi xã hội, từ “phẩm giá” sau đó được sử dụng để mô tả phẩm giá khác biệt của muôn loài trong vũ trụ. Theo quan điểm này, tất cả sinh vật đều sở hữu “phẩm giá” riêng theo vị trí của chúng trong sự hài hòa của toàn thể. Một số tư tưởng vĩ đại của thời cổ đại đã bắt đầu thừa nhận một vị trí độc đáo của con người là những sinh vật được ban cho lý trí, có thể chịu trách nhiệm cho bản thân và những người khác trên thế giới. [19] Tuy nhiên, một cách suy nghĩ có thể đặt nền tảng cho sự tôn trọng phẩm giá của mọi con người trong mọi hoàn cảnh vẫn còn là một chặng đường dài.
Những Quan Điểm Trong Kinh Thánh
- Mặc khải trong Kinh thánh dạy rằng tất cả mọi người đều có phẩm giá vốn có bởi vì họ được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa: “Thiên Chúa phán: 'Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, theo hình mẫu của chúng ta' [...] Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1: 26-27). Với điều này, nhân loại có một phẩm chất đặc biệt, có nghĩa là nó không thể đơn thuần giản lược thành các yếu tố vật chất. Hơn nữa, “hình ảnh” không xác định linh hồn hay khả năng trí tuệ mà là phẩm giá của người nam và người nữ. Trong mối quan hệ bình đẳng và yêu thương lẫn nhau, cả người nam và người nữ đều đại diện cho Thiên Chúa trên thế giới và cũng được kêu gọi để nâng niu, nuôi dưỡng thế giới. Bởi vì điều này, được tạo ra theo hình ảnh của Chúa có nghĩa là sở hữu một giá trị thiêng liêng vượt lên trên mọi sự phân biệt về giới tính, xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo. Phẩm giá của chúng ta được Thiên Chúa ban cho; nó không được đòi hỏi hay xứng đáng. Mỗi con người đều được Thiên Chúa yêu thương và mong muốn, do đó, có một phẩm giá bất khả xâm phạm. Trong sách Xuất Hành, ở trung tâm của Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ mình là Đấng nghe thấy tiếng kêu than của người nghèo, thấy cảnh khốn cùng của dân mình, và quan tâm đến những người thấp hèn nhất và những người bị áp bức (xem Xh 3,7; 22,20–26). Giáo huấn tương tự cũng có thể được tìm thấy trong Bộ luật Đệ nhị luật (xem Đnl 12-26); Ở đây, giáo huấn về quyền được chuyển thành bản tuyên ngôn về phẩm giá con người, đặc biệt ủng hộ ba nhóm người: trẻ mồ côi, góa phụ và người xa lạ (xem Đnl 24,17). Các giáo huấn cổ xưa trong sách Xuất Hành được nhắc lại và áp dụng vào thời điểm rao giảng của các ngôn sứ, những người đại diện cho lương tâm phê phán của dân Israel. Các ngôn sứ Amos, Hosea, Isaiah, Micah và Jeremiah đều có những lời lên án sự bất công. Amos cay đắng lên án sự áp bức người nghèo và sự thất bại của những người nghe ông trong việc nhận ra bất kỳ phẩm giá cơ bản nào của con người nơi những người khốn khổ (xem Am 2,6 – 7; 4,1; 5,11 – 12). Isaiah nguyền rủa những kẻ chà đạp quyền lợi của người nghèo, không cho họ công lý: “Khốn cho những kẻ ban hành các sắc lệnh bất công, và những người viết tiếp tục viết những điều áp bức, để đánh đuổi người nghèo ra khỏi công lý” (Is 10, 1– 2). Giáo huấn mang tính ngôn sứ này được lặp lại trong Văn chương Khôn ngoan. Ví dụ, Sirach đánh đồng việc áp bức người nghèo với tội giết người: “Lấy đi sinh kế của người lân cận là sát hại họ; tước đoạt tiền lương của người lao động là đổ máu” (Sir. 34,22). Trong các Thánh vịnh, mối quan hệ tôn giáo với Thiên Chúa được thể hiện qua việc bênh vực những người yếu đuối và nghèo khó: “Hãy thực thi công lý cho người yếu đuối và trẻ mồ côi; thực thi công lý cho người nghèo và người đau khổ. Hãy giải cứu kẻ yếu đuối và người nghèo khó; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay kẻ ác” (Tv 82,3–4).
- Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khiêm nhường, Chúa Giê-su mặc khải phẩm giá của người túng thiếu và những người lao động. [20] Sau đó, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Ngài khẳng định giá trị và phẩm giá của tất cả những ai mang hình ảnh của Thiên Chúa, bất kể địa vị xã hội và hoàn cảnh bên ngoài của họ. Chúa Giêsu đã phá vỡ những rào cản văn hóa và giáo phái, phục hồi phẩm giá cho những người bị “ruồng bỏ” hoặc bị coi là bên lề xã hội, chẳng hạn như người thu thuế (xem Mt 9,10–11), phụ nữ (xem Ga 4 : 1-42), trẻ em (xem Mc 10,14–15), người phong cùi (xem Mt 8,2–3), người bệnh (xem Mc 1,29-34), người ngoại quốc (xem Mt 25,35) và những người góa bụa (xem Lc 7,11 – 15). Ngài chữa lành, cho ăn, bênh vực, giải phóng và cứu rỗi. Ngài được mô tả như một người chăn chiên lo lắng về con chiên bị mất (xem Mt 18: 12-14). Ngài đồng nhất mình với người thấp hèn nhất trong các anh em mình: “Anh em làm gì cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40). Trong ngôn ngữ Kinh thánh, “những người bé mọn” không chỉ là trẻ em mà còn là những người dễ bị tổn thương, những người tầm thường nhất, những người bị ruồng bỏ, bị áp bức, bị bỏ rơi, người nghèo, người bị gạt ra bên lề, người không hiểu biết, người bệnh tật, và những người bị kẻ mạnh chà đạp. Đức Kitô vinh quang sẽ phán xét bởi tình yêu thương tha nhân bao gồm việc chăm sóc người đói, người khát, người lạ, người trần trụi, người bệnh và người bị bỏ tù, người mà Ngài đồng nhất với mình (xem Mt 25,34 – 36). Đối với Chúa Giêsu, điều tốt đẹp được thực hiện cho mọi người, bất kể quan hệ huyết thống hay tôn giáo, là tiêu chí duy nhất để phán xét. Tông đồ Phao-lô khẳng định rằng mọi Ki-tô hữu phải sống theo các đòi hỏi của phẩm giá và tôn trọng quyền lợi của tất cả mọi người (xem Rm 13,8 – 10) theo điều răn mới về yêu thương (xem 1 Cr 13,1 – 13).
Những phát triển trong Tư tưởng Kitô giáo
- Khi tư tưởng Kitô giáo phát triển, nó cũng thúc đẩy và đồng hành cùng sự tiến bộ trong suy tư của nhân loại về khái niệm phẩm giá. Dựa trên truyền thống phong phú của các Giáo Phụ, nhân học Kitô giáo cổ điển đã nhấn mạnh giáo lý về con người được tạo ra theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, cùng vai trò đặc biệt của con người trong công trình sáng tạo.[21] Bằng cách sàng lọc một cách phê phán qua di sản thừa kế từ triết học cổ đại, tư tưởng Kitô giáo thời Trung cổ đã đạt đến một tổng hợp về khái niệm "con người", công nhận nền tảng siêu hình của nhân phẩm. Thánh Thomas Aquinas đã chứng thực điều này khi ngài khẳng định rằng “'con người' biểu thị điều hoàn hảo nhất trong toàn bộ tự nhiên—đó là một cá thể tồn tại thuộc về một bản thể lý tính.” [22] Chủ nghĩa nhân văn Kitô giáo của thời Phục hưng sau đó đã nhấn mạnh phẩm giá bản thể học này và biểu hiện nổi bật của nó trong hành động tự do của con người. [23] Ngay cả trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng hiện đại như Descartes và Kant, những người đã thách thức một số nền tảng của nhân học Kitô giáo truyền thống, người ta vẫn có thể cảm nhận rõ ràng những âm hưởng của Mặc Khải. Dựa trên một số suy tư triết học gần đây về vị thế của chủ thể lý thuyết và thực tiễn, sự suy tư Kitô giáo sau đó chuyển sang nhấn mạnh hơn nữa chiều sâu của khái niệm phẩm giá. Trong thế kỷ XX, điều này đạt đến một viễn cảnh độc đáo (thể hiện qua Chủ nghĩa Cá nhân) đã xem xét lại câu hỏi về tính chủ thể và mở rộng nó để bao gồm tính liên chủ thể và các mối quan hệ gắn kết mọi người với nhau.[24] Tư tưởng bắt nguồn từ quan điểm này đã làm phong phú thêm nhân học Kitô giáo đương đại. [25]
Thời đại hiện nay
- Ngày nay, thuật ngữ "phẩm giá" chủ yếu được sử dụng để nhấn mạnh tính độc đáo của con người, không thể so sánh với tất cả các thực thể khác trong vũ trụ. Từ góc nhìn này, chúng ta có thể hiểu cách từ "phẩm giá" được sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc năm 1948, nói về "phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của tất cả các thành viên của gia đình nhân loại". Chỉ có tính chất bất khả xâm phạm này của phẩm giá con người mới cho phép nói về quyền con người.[26]
- Để làm rõ hơn nữa khái niệm về phẩm giá, điều cần thiết là phải chỉ ra rằng phẩm giá không phải là thứ được người khác ban cho một người dựa trên các ân huệ hay phẩm chất của họ, đến mức nó có thể bị rút lại. Nếu nó được ban cho như vậy, nó sẽ được trao một cách có điều kiện và có thể bị tước đoạt, và khi đó ngay cả ý nghĩa của phẩm giá (dù đáng được tôn trọng lớn lao đến đâu) sẽ vẫn bị phơi bày trước nguy cơ bị xóa bỏ. Thay vào đó, phẩm giá là nội tại của con người: nó không được trao sau đó (a posteriori), nó có trước bất kỳ sự công nhận nào, và nó không thể bị mất đi. Tất cả con người đều sở hữu phẩm giá nội tại như nhau này, bất kể họ có thể bày tỏ nó một cách thích hợp hay không.
- Vì lý do này, Công đồng Vatican II nói về "phẩm giá cao quí của con người, vượt trên mọi sự vật và có những quyền và nghĩa vụ phổ quát và bất khả xâm phạm."[27] Như câu mở đầu của Tuyên ngôn Dignitatis Humanae của Công đồng nhắc lại, "con người đương thời ngày càng ý thức hơn về phẩm giá của con người; ngày càng có nhiều người đòi hỏi rằng con người phải thực thi đầy đủ khả năng phán đoán của riêng mình và một sự tự do có trách nhiệm trong hành động, không bị áp lực cưỡng bức mà được truyền cảm hứng bởi ý thức về bổn phận."[28] Sự tự do tư tưởng và lương tâm như vậy, cả cá nhân và cộng đồng, dựa trên việc công nhận phẩm giá con người "như đã biết qua Lời Chúa mạc khải và bởi chính lý trí."[29] Huấn quyền của Giáo hội đã dần dần phát triển sự hiểu biết ngày càng lớn hơn về ý nghĩa của phẩm giá con người, cùng với các đòi hỏi và hệ quả của nó, cho đến khi đạt đến sự công nhận rằng phẩm giá của mỗi con người vượt lên trên mọi hoàn cảnh.
2. Giáo Hội Công Bố, Thúc Đẩy và Bảo Vệ Phẩm Giá Con Người
17. Giáo Hội công bố phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người, bất kể điều kiện sống hay đặc tính cá nhân của họ. Tuyên bố này dựa trên ba nền tảng cho niềm tin về phẩm giá con người, mà—trong ánh sáng của đức tin Kitô giáo— mang lại cho phẩm giá con người một giá trị vô song và củng cố những đòi hỏi nội tại của nó.
Hình ảnh không thể xóa nhòa của Thiên Chúa
18. Niềm tin đầu tiên, được rút ra từ Mặc Khải, cho rằng phẩm giá của con người đến từ tình yêu của Đấng Tạo Hóa, Đấng đã khắc sâu những đường nét không thể xóa nhòa của hình ảnh Ngài trên mỗi con người (x. St 1,26). Đấng Tạo Hóa mời gọi mỗi người nhận biết Ngài, yêu mến Ngài và sống trong mối tương quan giao ước với Ngài, đồng thời kêu gọi họ sống tình huynh đệ, công lý và hòa bình với mọi người. Theo quan điểm này, phẩm giá không chỉ nói đến linh hồn mà còn nói đến toàn bộ con người, một sự hợp nhất không thể tách rời giữa thể xác và linh hồn. Theo đó, phẩm giá cũng vốn có trong thân xác của mỗi người, là nơi mang hình ảnh của Thiên Chúa theo cách riêng (in imago Dei) và cũng được mời gọi để chia sẻ vinh quang của linh hồn trong niềm hạnh phúc thiêng liêng.
Đức Kitô nâng cao phẩm giá con người
19. Niềm tin thứ hai xuất phát từ thực tế là phẩm giá của con người đã được mặc khải trọn vẹn khi Chúa Cha sai chính Con Ngài nhập thể làm người một cách trọn vẹn: “Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã xác nhận phẩm giá của thân xác và linh hồn cấu thành nên con người.” [30] Qua việc kết hợp chính mình với mọi người qua sự Nhập Thể, Đức Giêsu Kitô đã xác nhận rằng mỗi người sở hữu một phẩm giá không thể đo lường được, chỉ bởi vì họ thuộc về cộng đồng nhân loại; hơn nữa, Ngài khẳng định rằng phẩm giá này không bao giờ có thể bị mất đi. [31] Bằng cách công bố rằng Nước Thiên Chúa thuộc về người nghèo, người khiêm nhường, người bị khinh miệt và những người đau khổ về thể xác và tinh thần; bằng cách chữa lành mọi thứ bệnh tật và đau yếu, thậm chí là những căn bệnh nặng nề nhất, chẳng hạn như bệnh phong cùi; bằng cách khẳng định rằng bất cứ điều gì làm cho những người này cũng là làm cho Ngài vì Ngài ở trong họ: trong tất cả những điều này, Chúa Giêsu đã mang đến sự mới mẻ tuyệt vời khi công nhận phẩm giá của mỗi người, đặc biệt là những người được coi là "không xứng đáng.” Nguyên tắc mới mẻ này trong lịch sử nhân loại— nhấn mạnh rằng các cá nhân thậm chí còn "xứng đáng" hơn để chúng ta tôn trọng và yêu thương khi họ yếu đuối, bị khinh miệt hoặc đau khổ, thậm chí đến mức mất đi "hình hài" con người —đã thay đổi bộ mặt của thế giới. Nó đã mang lại sức sống cho các tổ chức chăm sóc những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn, chẳng hạn như trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ mồ côi, người già không được giúp đỡ, người bệnh tâm thần, người mắc bệnh nan y hoặc dị tật nặng, người sống trên đường phố.
Ơn gọi đạt tới sự viên mãn của phẩm giá
20. Niềm tin thứ ba liên quan đến số phận tối hậu của con người. Sau công trình Tọa Dựng và Nhập Thể, Sự Phục Sinh của Đức Kitô đã mặc khải thêm một khía cạnh khác của phẩm giá con người. Quả thực, “phẩm giá của con người cốt yếu dựa trên thực tế là con người được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa,” [32] một cuộc hiệp thông được định sẵn để tồn tại mãi mãi. Vì vậy, "phẩm giá của sự sống này không chỉ gắn với khởi đầu của nó, với thực tế rằng nó đến từ Thiên Chúa, mà còn gắn liền với cùng đích cuối cùng của nó, với định mệnh thông hiệp với Thiên Chúa trong sự hiểu biết và yêu mến Ngài." [33]
21. Do đó, Giáo Hội tin tưởng và khẳng định rằng tất cả mọi người — được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, và được tái tạo [34] nơi Chúa Con, Đấng trở nên con người, bị đóng đinh và sống lại — đều được kêu gọi để lớn lên dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhằm phản ánh vinh quang của Chúa Cha trong chính hình ảnh đó, và chia sẻ sự sống đời đời (x. Ga 10,15–16, 17,22–24; 2 Cr 3,18; Ep 1,3–14). Quả thật, “Mặc Khải […] cho thấy phẩm giá của một con người trong tất cả sự viên mãn của nó.” [35]
Cam Kết Với Tự Do Của Chính Mình
22. Mỗi cá nhân đều sở hữu phẩm giá bất khả xâm phạm và nội tại ngay từ khi bắt đầu sự tồn tại của mình như một món quà không thể thu hồi. Tuy nhiên, việc lựa chọn thể hiện phẩm giá đó và biểu lộ nó trọn vẹn hay che khuất nó lại phụ thuộc vào quyết định tự do và có trách nhiệm của mỗi người. Một số Giáo phụ, chẳng hạn như Thánh Irênê và Thánh Gioan Đamascenô, đã phân biệt giữa “hình ảnh” và “sự giống nhau” được đề cập trong sách Sáng thế (xem 1,26). Điều này cho phép một góc nhìn năng động về phẩm giá con người, theo đó hình ảnh của Thiên Chúa được giao phó cho sự tự do của con người để—dưới sự hướng dẫn và tác động của Thần Khí—sự giống nhau của con người với Thiên Chúa có thể phát triển và mỗi người có thể đạt được phẩm giá cao nhất của mình. [36] Mọi người đều được kêu gọi biểu lộ phạm vi bản thể của phẩm giá mình ở cấp độ hiện sinh và luân lý, khi họ, bằng sự tự do của mình, tự định hướng bản thân hướng về điều thiện chân chính để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Như vậy, với tư cách là người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, con người không bao giờ đánh mất phẩm giá của mình và không bao giờ ngừng được kêu gọi để tự do đón nhận điều thiện. Đồng thời, trong chừng mực người đó đáp lại điều thiện, phẩm giá của mỗi người có thể tự do biểu lộ, phát triển năng động và dần dần; cùng với tiến trình đó, nó có thể phát triển và trưởng thành. Do đó, mỗi người cũng phải cố gắng để sống xứng đáng với mức độ trọn vẹn của phẩm giá mình. Dưới ánh sáng này, người ta có thể hiểu được tội lỗi có thể làm tổn thương và che khuất phẩm giá con người như thế nào, vì đây là một hành động trái ngược với phẩm giá; tuy nhiên, tội lỗi không bao giờ có thể xóa bỏ được sự thật rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Theo cách này, đức tin đóng một vai trò quyết định trong việc giúp lý trí nhận thức phẩm giá con người và trong việc chấp nhận, củng cố và làm rõ các đặc điểm cốt lõi của nó, như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã chỉ ra: “Tuy nhiên, nếu không được điều chỉnh bởi tôn giáo, bản thân lý trí cũng có thể trở thành nạn nhân của những xuyên tạc, chẳng hạn như khi nó bị thao túng bởi ý thức hệ, hoặc được áp dụng một cách thiển cận, không tính đến toàn bộ phẩm giá của con người. Cuộc lạm dụng lý trí như vậy, rốt cuộc, chính là nguồn gốc của nạn buôn bán nô lệ ngay từ đầu và nhiều tệ nạn xã hội khác, không kể đến các hệ tư tưởng độc tài của thế kỷ XX.”[37]
3. Phẩm giá, Nền Tảng của Nhân Quyền và Nghĩa Vụ
23. Như Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc lại, “Trong nền văn hóa hiện đại, tham chiếu gần nhất về nguyên tắc phẩm giá bất khả xâm phạm của con người là Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền, mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II định nghĩa là ‘một cột mốc trên con đường dài và gian nan của nhân loại,’ và là ‘một trong những tuyên ngôn cao quý nhất của lương tâm con người.’”[38] Để chống lại những nỗ lực nhằm thay đổi hoặc hủy bỏ ý nghĩa sâu sắc của Tuyên Ngôn đó, điều đáng nhớ là một số nguyên tắc cơ bản luôn phải được tôn trọng.
Tôn Trọng Vô Điều Kiện đối với Phẩm giá Con Người
24. Thứ nhất, trong khi nhận thức về phẩm giá con người ngày càng tăng lên, thì nhiều sự hiểu lầm về khái niệm này vẫn làm sai lệch ý nghĩa của nó. Một số người đề xuất rằng nên sử dụng thuật ngữ “phẩm giá cá nhân” (và các quyền “của cá nhân”) thay vì “phẩm giá con người” (và các quyền “của con người”) vì họ hiểu “cá nhân” chỉ là “người có khả năng suy luận.” Sau đó, họ lập luận rằng phẩm giá và quyền lợi được suy ra từ khả năng kiến thức và tự do của cá nhân, mà không phải tất cả con người đều có. Do đó, theo họ, thai nhi sẽ không có phẩm giá cá nhân, người già phụ thuộc người khác cũng không có, người khuyết tật tâm thần cũng không có.[39] Ngược lại, Giáo hội nhấn mạnh rằng phẩm giá của mỗi con người, chính xác vì nó là nội tại, vẫn tồn tại “trong mọi trường hợp.” Việc công nhận phẩm giá này không thể phụ thuộc vào phán đoán về khả năng hiểu và hành động tự do của người đó; nếu không, nó sẽ không vốn có trong con người, độc lập với tình trạng của cá nhân, và do đó xứng đáng được tôn trọng vô điều kiện. Chỉ bằng cách công nhận phẩm chất nội tại và bất khả chuyển nhượng trong mỗi con người, chúng ta mới có thể đảm bảo một nền tảng vững chắc và bất khả xâm phạm cho phẩm giá đó. Nếu không có nền tảng bản thể luận nào, việc công nhận phẩm giá con người sẽ dao động theo những phán đoán tùy ý và võ đoán. Điều kiện tiên quyết duy nhất để nói về phẩm chất vốn có trong con người là việc họ thuộc về loài người, theo đó “nhân quyền của cá nhân chính là nhân quyền của nhân loại.”[40]
Nền Tảng Khách Quan cho Tự Do Con Người
25. Thứ hai, khái niệm về phẩm giá con người đôi khi cũng bị lạm dụng để biện minh cho sự gia tăng tùy ý các quyền mới, nhiều quyền trong số đó mâu thuẫn với các quyền được định nghĩa ban đầu và thường mâu thuẫn với quyền cơ bản là quyền được sống.[41] Cứ như thể khả năng thể hiện và hiện thực hóa mọi sở thích cá nhân hoặc ham muốn chủ quan phải được đảm bảo. Quan điểm này đồng nhất phẩm giá với một loại tự do cá nhân và cá nhân chủ nghĩa, tuyên bố áp đặt những ham muốn và khuynh hướng chủ quan cụ thể thành “quyền” được cộng đồng đảm bảo và hỗ trợ tài chính. Tuy nhiên, phẩm giá con người không thể dựa trên các tiêu chuẩn chỉ mang tính cá nhân, cũng không thể đồng nhất với sự khỏe mạnh về thể chất và tâm lý của cá nhân. Đúng hơn, việc bảo vệ phẩm giá con người dựa trên những đòi hỏi cấu thành của bản chất con người, không phụ thuộc vào sự tùy ý của cá nhân hay sự công nhận của xã hội. Do đó, các nghĩa vụ bắt nguồn từ việc công nhận phẩm giá của người khác và các quyền tương ứng phát sinh từ đó có nội dung cụ thể và khách quan dựa trên bản chất chung của con người chúng ta. Nếu không có một nền tảng khách quan như vậy, khái niệm phẩm giá con người trên thực tế sẽ phụ thuộc vào các hình thức tùy ý và lợi ích quyền lực đa dạng nhất.
Cấu Trúc Quan Hệ của Con Người
26. Nhìn qua lăng kính về bản chất tương quan của con người, phẩm giá con người giúp vượt qua quan điểm hạn hẹp về một thứ tự do cá nhân và tự tham chiếu, thứ tự do này tự cho phép tạo ra các giá trị riêng của nó bất kể các chuẩn mực khách quan về điều thiện và mối quan hệ của chúng ta với các sinh vật sống khác. Thật vậy, ngày càng có nguy cơ thu hẹp giảm phẩm giá con người xuống thành khả năng xác định bản sắc và tương lai của một người độc lập với người khác, không quan tâm đến việc người đó là thành viên của cộng đồng nhân loại. Trong cách hiểu sai lầm về tự do này, việc công nhận lẫn nhau các nghĩa vụ và quyền lợi cho phép chúng ta chăm sóc lẫn nhau trở nên bất khả thi. Thực tế, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại, tự do được đặt “vào việc phục vụ con người và sự hoàn thiện của họ thông qua sự hy sinh bản thân và sự cởi mở với người khác; nhưng khi tự do được tuyệt đối hóa theo cách cá nhân, nó sẽ bị tước bỏ nội dung ban đầu, và chính ý nghĩa và phẩm giá của nó bị mâu thuẫn.”[42]
27. Phẩm giá con người cũng bao gồm khả năng, vốn có trong bản chất con người, để đảm nhận các nghĩa vụ đối với người khác.
28. Sự khác biệt giữa con người và tất cả các sinh vật sống khác, được thể hiện rõ nhờ khái niệm phẩm giá, không nên khiến chúng ta quên đi sự tốt lành của các sinh vật khác. Những sinh vật đó tồn tại không chỉ vì tiện ích của con người mà còn sở hữu giá trị riêng của chúng; chúng giống như những món quà được giao phó cho nhân loại để yêu quý và vun đắp. Vì vậy, trong khi khái niệm phẩm giá dành riêng cho con người, thì đồng thời, sự tốt lành của các sinh vật khác trong vũ trụ cũng phải được khẳng định. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô chỉ ra, “Nhờ vào phẩm chất độc đáo và món quà trí thông minh của chúng ta, chúng ta được kêu gọi tôn trọng sáng tạo và các quy luật vốn có của nó […], ‘Mỗi tạo vật đều sở hữu sự thiện hảo và sự hoàn hảo riêng của nó… Mỗi tạo vật khác nhau, được mong muốn trong chính bản thể của nó, theo cách riêng của nó phản ánh một tia sáng của sự khôn ngoan và lòng tốt vô hạn của Thiên Chúa. Do đó, con người phải tôn trọng sự thiện hảo đặc biệt của mọi tạo vật, để mọi sự lạm dụng và sử dụng sai mục đích các sự vật.’”[43] Hơn nữa, “ngày nay chúng ta buộc phải nhận ra rằng chỉ có thể duy trì được một ‘chủ nghĩa nhân bản lấy con người làm trung tâm phù hợp với bối cảnh.’ Nói cách khác, để nhận ra rằng cuộc sống của con người là không thể hiểu và không thể duy trì nếu thiếu các sinh vật khác.”[44] Theo quan điểm này, “chúng ta không thể thờ ơ trước việc quá nhiều loài đang biến mất và khủng hoảng khí hậu đang đe dọa đến sự sống của nhiều sinh vật khác.”[45] Thật vậy, việc chăm sóc môi trường, đặc biệt chú ý đến sinh thái nhân văn, yếu tố bảo toàn sự tồn tại của chính con người, thuộc về phẩm giá của con người.
Giải phóng Con Người khỏi những Ảnh hưởng Tiêu cực trong Lĩnh vực Đạo Đức và Xã hội
29. Những điều kiện tiên quyết cơ bản này, dù cần thiết, nhưng không đủ để đảm bảo sự phát triển của con người phù hợp với phẩm giá của họ. Trong khi “Thiên Chúa tạo dựng con người thành một hữu thể có lý trí, ban cho con người phẩm giá của một nhân vị có thể chủ động và kiểm soát hành động của mình,”[46] hướng đến điều thiện, thì ý chí tự do của chúng ta lại thường ưu tiên cái ác hơn điều thiện. Do đó, sự tự do của con người, đến lượt nó, cần được giải phóng. Trong thư gửi tín hữu Galat, Thánh Phaolô khẳng định rằng “Chính vì để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gal. 5:1), nhắc nhở nhiệm vụ đặc thù của mỗi Kitô hữu, những người gánh vác trách nhiệm giải thoát mở rộng ra toàn thế giới (xem Rom. 8:19). Đây là sự giải thoát bắt đầu từ trái tim của từng cá nhân, được kêu gọi lan tỏa và thể hiện sức mạnh nhân bản của nó trong tất cả các mối quan hệ.
30. Tự do là món quà tuyệt vời từ Thiên Chúa. Ngay cả khi Ngài hướng chúng ta đến Ngài bằng ân sủng của mình, Ngài vẫn làm điều đó theo cách không bao giờ vi phạm quyền tự do của chúng ta. Vì vậy, sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng bằng tách rời khỏi Đấng Sáng Tạo và sự trợ giúp của Ngài, chúng ta có thể trở nên tự do hơn và do đó cảm thấy có phẩm giá hơn. Ngược lại, tách rời Đấng Tạo Hóa, tự do của chúng ta chỉ có thể suy yếu và trở nên mờ mịt. Điều tương tự cũng xảy ra nếu tự do tự cho mình là độc lập với bất kỳ tham chiếu bên ngoài nào và coi bất kỳ mối quan hệ nào với một chân lý trước đó là mối đe dọa; kết quả là, sự tôn trọng tự do và phẩm giá của người khác cũng sẽ giảm sút. Như Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã giải thích, “Một ý chí tin rằng mình hoàn toàn không có khả năng tìm kiếm chân lý và điều thiện thì không có lý do hay động cơ khách quan nào để hành động ngoại trừ những điều do lợi ích nhất thời và tình cờ của nó áp đặt; nó không có ‘bản sắc’ để bảo vệ và xây dựng thông qua những quyết định thực sự tự do và có ý thức. Kết quả là, nó không thể đòi hỏi sự tôn trọng từ những ‘ý chí’ khác, những ý chí này cũng tách rời bản thể sâu thẳm nhất của mình và do đó có khả năng áp đặt những ‘lý do’ khác hoặc, hoàn toàn không có ‘lý do’ nào cả. Ảo tưởng cho rằng chủ nghĩa tương đối luân lý cung cấp chìa khóa cho sự chung sống hòa bình thực sự là nguồn gốc của những chia rẽ và sự phủ nhận phẩm giá của con người.”[47]
31. Hơn nữa, sẽ là không thực tế khi đưa ra một thứ tự do trừu tượng, không chịu bất kỳ ảnh hưởng, bối cảnh hay hạn chế nào. Thay vào đó, “việc thực hiện đúng đắn tự do cá nhân đòi hỏi những điều kiện cụ thể về trật tự kinh tế, xã hội, pháp luật, chính trị và văn hóa,”[48] điều này thường không được đáp ứng. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng một số cá nhân được hưởng “tự do” nhiều hơn những người khác. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đặc biệt chú ý đến điểm này: “Một số người được sinh ra trong gia đình ổn định về kinh tế, được hưởng nền giáo dục tốt, lớn lên với sự nuôi dưỡng đầy đủ, hoặc bẩm sinh sở hữu tài năng tuyệt vời. Chắc chắn họ không cần một nhà nước chủ động; họ chỉ cần tuyên bố quyền tự do của mình. Tuy nhiên, quy tắc tương tự rõ ràng không áp dụng cho người khuyết tật, người sinh ra trong cảnh nghèo khổ, những người thiếu nền giáo dục tốt và ít được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Nếu một xã hội được điều hành chủ yếu bởi các tiêu chí về thị trường tự do và hiệu quả, thì sẽ không có chỗ cho những người như vậy, và tình huynh đệ chỉ còn là một lý tưởng mơ hồ.”[49] Do đó, điều quan trọng là phải hiểu rằng “loại bỏ bất công thúc đẩy tự do và phẩm giá con người”[50] ở mọi phương diện của đời sống nhân sinh. Để cho phép tự do đích thực, "chúng ta phải đặt phẩm giá con người trở lại trung tâm và trên trụ cột đó, xây dựng các cấu trúc xã hội thay thế mà chúng ta cần."[51] Tương tự, tự do thường bị che khuất bởi nhiều ảnh hưởng tâm lý, lịch sử, xã hội, giáo dục và văn hóa khác nhau. Tự do thực tế và lịch sử luôn cần được "giải thoát." Hơn nữa, phải khẳng định lại quyền tự do tôn giáo cơ bản.
32. Đồng thời, lịch sử nhân loại cho thấy sự tiến bộ rõ rệt trong việc hiểu về phẩm giá và tự do của con người, mặc dù không phải không có những bóng tối và nguy cơ thoái hóa. Sự tiến bộ như vậy trong việc hiểu về phẩm giá con người được chứng minh bởi thực tế là ngày càng có mong muốn xóa bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chế độ nô lệ và sự gạt ra ngoài lề của phụ nữ, trẻ em, người bệnh và người khuyết tật. Khát vọng này đã được củng cố dưới ảnh hưởng của đức tin Kitô giáo, vốn tiếp tục là một chất men, ngay cả trong các xã hội ngày càng thế tục hóa. Tuy nhiên, hành trình gian nan trong việc thúc đẩy phẩm giá con người vẫn còn xa mới hoàn thành.
4. Một Số Vi Phạm Nghiêm Trọng Đối Với Phẩm Giá Con Người
33. Dưới ánh sáng những suy tư trước đó về tính trung tâm của phẩm giá con người, phần cuối của Bản Tuyên Bố này sẽ đề cập đến một số vi phạm cụ thể và nghiêm trọng đối với phẩm giá đó. Nó được thực hiện theo tinh thần phù hợp với quyền dạy dỗ của Giáo Hội, vốn đã được thể hiện đầy đủ trong giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây, như đã đề cập trước đó. Ví dụ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một mặt, không ngừng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết tôn trọng phẩm giá con người: “Mỗi con người đều có quyền sống trong phẩm giá và phát triển toàn diện; quyền cơ bản này không thể bị bất kỳ quốc gia nào phủ nhận. Con người có quyền này ngay cả khi họ kém hiệu quả trong công việc, hoặc vốn sinh ra mang những hạn chế, hoặc dần hình thành những rào cản trong cuộc đời. Điều này không làm giảm bớt phẩm giá cao quý của họ là con người, một phẩm giá không dựa trên hoàn cảnh mà dựa trên giá trị nội tại của sự hiện hữu. Nếu nguyên tắc cơ bản này không được duy trì, sẽ không có tương lai cho tình huynh đệ hoặc cho sự tồn tại của nhân loại.” [52] Mặt khác, ngài không ngừng chỉ ra những vi phạm cụ thể đối với phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, kêu gọi mỗi người chúng ta thức tỉnh trách nhiệm của mình và sự cần thiết tham gia vào một cam kết cụ thể về vấn đề này.
34. Khi giải quyết một số vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người ngày nay, chúng ta có thể dựa vào những giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II, nhấn mạnh rằng “mọi tội ác chống lại sự sống, chẳng hạn như giết người, diệt chủng, phá thai, an tử và tự tử có chủ ý” phải được xem là trái với phẩm giá con người. [53] Hơn nữa, Công Đồng khẳng định rằng “mọi hành vi xâm phạm sự toàn vẹn của con người, chẳng hạn như cắt xén cơ thể, tra tấn thể xácvà tinh thần, áp lực tâm lý quá đáng,” cũng vi phạm đến phẩm giá của chúng ta. [54] Cuối cùng, công đồng lên án “mọi hành vi xúc phạm đến phẩm giá con người, chẳng hạn như điều kiện sống không xứng đáng con người, giam cầm tùy tiện, trục xuất, chế độ nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, điều kiện làm việc hạ thấp nhân phẩm, nơi con người được đối xử như những công cụ kiếm lợi đơn thuần chứ không phải những con người tự do và có trách nhiệm.” [55] Ở đây, người ta cũng nên đề cập đến hình phạt tử hình, vì điều này cũng vi phạm phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, bất kể hoàn cảnh nào. [56] Về vấn đề này, chúng ta phải nhận ra rằng “việc kiên quyết bác bỏ hình phạt tử hình cho thấy mức độ mà chúng ta có thể nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người và chấp nhận rằng mỗi người đều có một vị trí riêng trong thế giới bao la này. Nếu tôi không phủ nhận phẩm giá đó đối với những kẻ phạm tội tồi tệ nhất, thì tôi sẽ không phủ nhận nó với bất kỳ ai. Tôi sẽ cho mọi người khả năng chia sẻ hành tinh này với tôi, bất chấp tất cả những khác biệt của chúng ta.” [57] Cũng cần thiết phải tái khẳng định phẩm giá của những người bị giam cầm, những người thường phải sống trong những điều kiện không xứng đáng. Cuối cùng, cần phải nói rằng - ngay cả khi ai đó phạm tội nghiêm trọng - thì việc tra tấn hoàn toàn trái ngược với phẩm giá vốn có của mỗi con người.
35. Mặc dù không tuyên bố là toàn diện, các đoạn sau đây sẽ thu hút sự chú ý đến một số vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người có liên quan đặc biệt.
Bi kịch của Nghèo Đói
- Một trong những hiện tượng góp phần đáng kể vào việc phủ nhận phẩm giá của rất nhiều con người là nghèo đói cùng cực, gắn liền với sự phân phối bất bình đẳng của cải. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh, “Một trong những bất công lớn nhất trong thế giới đương đại chính là ở chỗ: những người sở hữu nhiều thì tương đối ít và những người hầu như không có gì để sở hữu thì lại rất nhiều. Đó là sự bất công trong việc phân phối hàng hóa và dịch vụ vốn dĩ dành cho tất cả mọi người.”[58] Hơn nữa, sẽ là sai lầm nếu chỉ phân biệt sơ sài giữa các quốc gia “giàu” và “nghèo”, vì Đức Giáo Hoàng Benedict XVI thừa nhận rằng “nhìn chung, của cải của thế giới đang tăng lên, nhưng bất bình đẳng đang gia tăng. Ở các nước giàu, các tầng lớp xã hội mới đang rơi vào cảnh nghèo đói và những dạng nghèo đói mới đang xuất hiện. Ở những khu vực nghèo hơn, một số nhóm người được hưởng một loại ‘siêu phát triển’ kiểu phung phí và tiêu dùng, tạo thành một sự đối lập không thể chấp nhận được với tình trạng tước đoạt phi nhân tính đang diễn ra.” “‘Vấn nạn bất bình đẳng trầm trọng’ vẫn tiếp tục,”[59] nơi phẩm giá của người nghèo bị phủ nhận gấp đôi vì thiếu nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ và sự thờ ơ của những người lân cận dành cho họ.
- Do đó, cùng với Giáo Hoàng Phanxicô, người ta phải kết luận rằng “của cải đã tăng lên, nhưng đi kèm với bất bình đẳng, kết quả là ‘những dạng nghèo đói mới đang xuất hiện.’ Lời khẳng định rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo được đưa ra bằng cách đo lường nghèo đói với các tiêu chí từ quá khứ không phù hợp với thực tế ngày nay.”[60] Kết quả là, nghèo đói “có thể mang nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như việc ám ảnh giảm chi phí lao động mà không quan tâm đến những hậu quả nghiêm trọng của nó, vì tình trạng thất nghiệp do nó trực tiếp tạo ra dẫn đến việc lan rộng nghèo đói.”[61] Trong số những “tác động tàn phá của đế chế tiền tệ,”[62] cần phải thừa nhận rằng “không có nghèo đói nào tồi tệ hơn nghèo đói tước đi công việc và phẩm giá của công việc.”[63] Hơn nữa, nếu một số người được sinh ra ở một đất nước hoặc gia đình nơi họ có ít cơ hội để phát triển, thì chúng ta nên thừa nhận rằng điều này trái với phẩm giá của họ, vốn là phẩm giá tương tự như phẩm giá của những người sinh ra trong một gia đình hoặc đất nước giàu có. Tất cả chúng ta đều chịu trách nhiệm về sự bất bình đẳng khốc liệt này, mặc dù ở các mức độ khác nhau.
Chiến Tranh
- Một bi kịch khác xâm phạm đến phẩm giá con người, cả trong quá khứ và hiện tại, chính là chiến tranh: “Chiến tranh, các cuộc tấn công khủng bố, ngược đãi chủng tộc hay tôn giáo, và nhiều hành vi khác xúc phạm đến phẩm giá con người […] ‘đã trở nên quá phổ biến đến mức cấu thành một ‘cuộc chiến tranh thế giới thứ ba’ thực sự được tiến hành từng phần.’”[64] Với những tàn tích hủy diệt và đau khổ kéo theo, chiến tranh tấn công vào phẩm giá con người trong cả ngắn hạn và dài hạn: “Trong khi tái khẳng định quyền bất khả xâm phạm về tự vệ và trách nhiệm bảo vệ những người có mạng sống bị đe dọa, chúng ta phải thừa nhận rằng chiến tranh luôn là ‘sự thất bại của nhân loại.’ Không cuộc chiến nào đáng để một người mẹ phải rơi nước mắt vì nhìn thấy con mình bị tàn tật hoặc bị giết hại; không cuộc chiến nào đáng để đánh đổi mạng sống của một con người, một con người thiêng liêng được tạo ra theo hình ảnh và giống như Đấng Tạo Hóa; không cuộc chiến nào đáng để đầu độc ngôi nhà chung của chúng ta; và không cuộc chiến nào đáng để khiến những người buộc phải rời bỏ quê hương và bị tước đoạt, trong chốc lát, khỏi nhà cửa và tất cả các mối quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội và văn hóa đã được xây dựng, đôi khi qua nhiều thế hệ.”[65] Tất cả các cuộc chiến, chỉ vì bản chất mâu thuẫn với phẩm giá con người, đều là “những cuộc xung đột không giải quyết được vấn đề mà chỉ làm chúng thêm trầm trọng.”[66] Điều này thậm chí còn quan trọng hơn trong thời đại chúng ta, khi việc có quá nhiều thường dân vô tội thiệt mạng ngoài chiến trường đã trở thành điều bình thường.
- Do đó, ngay cả ngày nay, Giáo Hội không thể không tự mình nói lên những lời của các Giáo Hoàng, lặp lại cùng với Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI: “jamais plus la guerre, jamais plus la guerre!” [“không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa, không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa!”].[67] Hơn nữa, cùng với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội cầu xin “nhân danh Thiên Chúa và nhân danh con người: Đừng giết chóc! Đừng chuẩn bị hủy diệt và tàn sát con người! Hãy nghĩ đến những anh chị em đang phải chịu đựng cảnh đói khát và khổ sở! Hãy tôn trọng phẩm giá và tự do của mỗi người!”[68] Bây giờ cũng như trước đây, đây chính là tiếng kêu của Giáo Hội và của toàn nhân loại. Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh điều này bằng cách tuyên bố, “Chúng ta không thể coi chiến tranh là giải pháp nữa vì những rủi ro của nó có lẽ sẽ luôn lớn hơn những lợi ích nó mang lại. Do đó, ngày nay, rất khó để viện dẫn các tiêu chí hợp lý được xây dựng trong những thế kỷ trước để nói về khả năng của một ‘cuộc chiến tranh chính nghĩa.’ Không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa!”[69] Vì nhân loại thường lặp lại những sai lầm tương tự của quá khứ, nên “để biến hòa bình thành hiện thực, chúng ta phải thoát khỏi logic của tính chính đáng của chiến tranh.”[70] Mối quan hệ mật thiết giữa đức tin và phẩm giá con người cho thấy việc chiến tranh dựa trên niềm tin tôn giáo sẽ là mâu thuẫn: “Kẻ nào kêu gọi danh nghĩa Thiên Chúa để biện minh cho khủng bố, bạo lực và chiến tranh thì không đi theo con đường của Thiên Chúa. Chiến tranh nhân danh tôn giáo trở thành cuộc chiến chống lại chính tôn giáo đó.”[71]
Nỗi Gian Truân của Người Di Cư
- Người di cư là một trong những nạn nhân đầu tiên của nhiều hình thức nghèo đói. Không chỉ phẩm giá của họ bị chối bỏ ở quê hương,[72] mà cuộc sống của họ còn bị đe dọa vì không còn có đủ phương tiện để xây dựng gia đình, làm việc hay nuôi sống bản thân.[73] Một khi đã đến được các quốc gia đáng lẽ có thể đón nhận họ, "người di cư không được nhìn nhận là có quyền tham gia vào đời sống xã hội như những người khác, và người ta quên rằng họ cũng có phẩm giá nội tại như bất kỳ người nào khác. [...] Sẽ không ai công khai phủ nhận rằng họ là con người; nhưng trên thực tế, qua các quyết định của chúng ta và cách chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể cho thấy rằng chúng ta coi họ kém giá trị, kém quan trọng và kém nhân văn hơn."[74] Do đó, việc nhắc nhở rằng "mỗi người di cư là một con người, và với tư cách đó, họ có các quyền cơ bản, bất khả xâm phạm mà mọi người phải tôn trọng trong mọi hoàn cảnh"[75] là một việc cấp bách. Đón nhận người di cư là một cách quan trọng và có ý nghĩa để bảo vệ "phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người, bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo."[76]
Nạn Buôn Người
- Nạn buôn người cũng phải được xếp vào số các vi phạm nghiêm trọng xâm phạm đến phẩm giá con người.[77] Mặc dù đây không phải là hiện tượng mới, nhưng nó đã mang những chiều kích bi thảm trước mắt chúng ta, đó là lý do Đức Giáo hoàng Phanxicô đã lên án nó một cách đặc biệt mạnh mẽ: "Tôi xin khẳng định lại ở đây rằng 'buôn bán người' là một hoạt động đê hèn, là một sự ô nhục cho các xã hội tự nhận là văn minh! Những kẻ bóc lột và khách hàng ở mọi cấp độ phải nghiêm túc xét mình trước mặt Chúa! Ngày nay, Giáo Hội đang làm mới lời kêu gọi khẩn thiết rằng phẩm giá và vị trí trung tâm của mỗi cá nhân phải luôn được bảo vệ, với sự tôn trọng các quyền cơ bản, như giáo huấn xã hội của Giáo Hội nhấn mạnh. Giáo Hội yêu cầu các quyền này thực sự được mở rộng cho hàng triệu người nam người nữ trên mọi lục địa, ở bất cứ nơi nào chúng không được công nhận. Trong một thế giới nói nhiều về quyền lợi, phẩm giá con người lại thường xuyên bị chà đạp! Trong một thế giới nói quá nhiều về quyền lợi, có vẻ như thứ duy nhất có quyền là tiền bạc."[78]
- Vì những lý do này, Giáo Hội và nhân loại không được ngừng đấu tranh chống lại các hiện tượng như "buôn bán các cơ quan và mô người, bóc lột tình dục trẻ em trai và gái, lao động nô lệ, bao gồm cả mại dâm, buôn ma túy và vũ khí, khủng bố, và tội phạm có tổ chức quốc tế. Quy mô của những tình huống này, và cái giá phải trả bằng mạng sống của những người vô tội, đến mức chúng ta phải tránh mọi cám dỗ sa vào chủ nghĩa duy danh theo quan điểm tuyên bố nhằm xoa dịu lương tâm của mình. Chúng ta cần phải đảm bảo rằng các tổ chức của chúng ta thực sự hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả những tai ương này."[79] Đối mặt với những sự phủ nhận đa dạng và tàn bạo về phẩm giá con người, chúng ta cần ngày càng ý thức rằng "buôn người là một tội ác chống lại nhân loại."[80] Về cơ bản, nó phủ nhận phẩm giá con người theo ít nhất hai cách: "Nạn buôn người làm biến dạng sâu sắc nhân tính của nạn nhân, xúc phạm đến tự do và phẩm giá của họ. Tuy nhiên, đồng thời, làm cho những người thực hiện hành vi đó trở nên thiếu nhân tính."[81]
Lạm Dụng Tình Dục
- Phẩm giá sâu sắc vốn có trong con người toàn bộ tâm trí và thể xác cũng cho phép chúng ta hiểu tại sao mọi hình thức lạm dụng tình dục đều để lại những vết sẹo sâu trong lòng những người phải chịu đựng nó. Thật vậy, những người bị lạm dụng tình dục trải qua những vết thương thực sự trong phẩm giá con người của họ. Đây là "những đau khổ có thể kéo dài cả đời và không sự hối hận nào có thể bù đắp được. Hiện tượng này đang lan rộng trong xã hội và nó cũng ảnh hưởng đến Giáo Hội, tạo thành một trở ngại nghiêm trọng cho sứ mạng của Giáo Hội."[82] Từ đó, Giáo Hội không ngừng nỗ lực chấm dứt mọi hình thức lạm dụng, bắt đầu từ bên trong.
Bạo lực chống lại phụ nữ
44. Bạo lực chống lại phụ nữ là một vấn nạn toàn cầu đang ngày càng được chú ý. Mặc dù phẩm giá bình đẳng của phụ nữ có thể được công nhận bằng lời nói, nhưng sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới ở một số quốc gia vẫn còn rất nghiêm trọng. Ngay cả ở những quốc gia phát triển và dân chủ nhất, thực tế xã hội cụ thể cũng cho thấy rằng phụ nữ thường không được coi trọng như nam giới. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh điều này khi ngài khẳng định rằng "Tổ chức của các xã hội trên toàn thế giới vẫn còn xa mới phản ánh rõ ràng rằng phụ nữ sở hữu cùng phẩm giá và quyền bình đẳng với nam giới. Chúng ta nói một đằng bằng lời, nhưng quyết định và thực tế của chúng ta lại kể một câu chuyện khác. Thật vậy, 'những người phụ nữ phải chịu đựng các tình huống bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực thì còn chịu nhiều đau khổ hơn nữa vì cảnh nghèo', vì họ thường ít khả năng bảo vệ quyền của mình hơn." [83]
45. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận ra rằng "vẫn còn nhiều việc phải làm để ngăn chặn sự phân biệt đối xử với những người đã chọn làm vợ và làm mẹ. […] Cần phải đạt được sự bình đẳng thực sự trong mọi lĩnh vực: tiền lương bình đẳng cho công việc bình đẳng, bảo vệ bà mẹ đi làm, công bằng trong thăng tiến nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng về quyền gia đình và công nhận tất cả những gì thuộc về quyền và nghĩa vụ của công dân trong một nhà nước dân chủ." [84]Thật vậy, sự bất bình đẳng trong những lĩnh vực này cũng là những hình thức bạo lực khác nhau. Ngài cũng nhắc lại rằng "đã đến lúc phải lên án mạnh mẽ các loại bạo lực tình dục thường lấy phụ nữ làm đối tượng và ban hành luật pháp để bảo vệ họ một cách hiệu quả khỏi những bạo lực đó. Chúng ta cũng không thể không lên án, nhân danh sự tôn trọng đối với con người, nền văn hóa hưởng lạc và thương mại phổ biến khuyến khích bóc lột tình dục một cách có hệ thống và làm cho ngay cả những cô gái rất trẻ cũng bị tha hóa để cơ thể của họ được sử dụng vì lợi nhuận." [85]Trong số các hình thức bạo lực đối với phụ nữ, làm sao chúng ta không thể đề cập đến phá thai cưỡng bức, ảnh hưởng đến cả mẹ và con, thường là để thỏa mãn sự ích kỷ của nam giới? Và làm sao chúng ta không thể đề cập đến tục đa thê? Như Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta, đa thê trái với phẩm giá bình đẳng của phụ nữ và nam giới; nó cũng "trái với tình yêu vợ chồng là duy nhất và không bị chia cắt." [86]
46. Trong việc xem xét vấn đề bạo lực chống lại phụ nữ này, người ta không thể lên án đủ hiện tượng giết hại phụ nữ hay trẻ em gái chỉ vì giới tính của họ là nữ. Trên mặt trận này, toàn thể cộng đồng quốc tế phải có một cam kết phối hợp và cụ thể, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc lại, "Tình yêu của chúng ta dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta cảm nhận được sự trân trọng và biết ơn đối với phụ nữ, đối với những người mẹ và người bà của chúng ta, những người là thành trì trong cuộc sống ở các thành phố của chúng ta. Hầu như luôn luôn trong im lặng, họ mang theo sự sống về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của hy vọng. Cảm ơn các bạn vì lời chứng của các bạn. […] Nhưng khi nghĩ về mẹ và bà của chúng ta, tôi muốn mời các bạn chống lại một tai họa đang ảnh hưởng đến lục địa châu Mỹ: vô số trường hợp phụ nữ bị giết hại. Và nhiều tình huống bạo lực được giữ kín sau vô số bức tường. Tôi yêu cầu các bạn hãy chiến đấu chống lại nguồn gốc của sự đau khổ này bằng cách kêu gọi luật pháp và một nền văn hóa lên án mọi hình thức bạo lực." [87]
Phá thai
47. Giáo hội luôn nhắc nhở chúng ta rằng "phẩm giá của mỗi con người mang tính chất nội tại và có hiệu lực từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Chính sự khẳng định phẩm giá như vậy là điều kiện tiên quyết không thể tước đoạt để bảo vệ sự tồn tại cá nhân và xã hội, đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để tình huynh đệ và tình bạn xã hội được thực hiện giữa tất cả các dân tộc trên trái đất." [88] Vì giá trị vô hình của sự sống con người, Giáo huấn của Giáo hội luôn lên tiếng phản đối phá thai. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: "Trong số tất cả các tội ác có thể được thực hiện chống lại sự sống, phá thai theo ý muốn có những đặc điểm khiến nó đặc biệt nghiêm trọng và đáng chê trách. [...] Nhưng ngày nay, trong lương tâm của nhiều người, nhận thức về mức độ nghiêm trọng của nó đã dần dần bị che mờ. Việc chấp nhận phá thai trong suy nghĩ, hành vi và thậm chí cả luật pháp đều là dấu hiệu cho thấy một cuộc khủng hoảng cực kỳ nguy hiểm về ý thức đạo đức, vốn ngày càng trở nên không có khả năng phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản của sự sống đang bị đe dọa. Trước tình trạng nghiêm trọng như vậy, bây giờ chúng ta cần hơn bao giờ hết phải có lòng can đảm để nhìn thẳng sự thật và gọi đúng tên mọi thứ, không khuất phục trước những thỏa hiệp thuận tiện hoặc sự cám dỗ tự lừa dối bản thân. Về vấn đề này, lời trách móc của vị Ngôn sứ vô cùng thẳng thắn: 'Khốn cho những kẻ gọi điều ác là thiện và điều thiện là ác, kẻ biến bóng tối thành ánh sáng và ánh sáng thành bóng tối' (Is 5:20). Đặc biệt trong trường hợp phá thai, thuật ngữ mơ hồ được sử dụng rộng rãi, chẳng hạn như 'ngừng thai nghén', có xu hướng che giấu bản chất thực sự của phá thai và giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của nó trong dư luận. Có lẽ chính hiện tượng ngôn ngữ này là một triệu chứng của sự bất an trong lương tâm. Nhưng không một từ nào có sức mạnh thay đổi thực tế của sự việc: phá thai theo ý muốn là việc giết người có chủ ý và trực tiếp, bằng bất kỳ phương tiện nào được thực hiện, đối với một con người trong giai đoạn đầu của sự tồn tại, kéo dài từ khi thụ thai đến khi sinh ra." [89] Do đó, những đứa trẻ chưa chào đời là "những người yếu thế và vô tội nhất trong chúng ta. Ngày nay, người ta đang cố gắng phủ nhận phẩm giá con người của chúng và muốn làm bất cứ điều gì mình thích với chúng, tước đoạt mạng sống của chúng và ban hành luật pháp ngăn cản bất kỳ ai cản đường việc này." [90] Vì vậy, cần phải tuyên bố một cách dứt khoát và rõ ràng, ngay cả trong thời đại chúng ta, rằng "sự bảo vệ này đối với sự sống của thai nhi gắn liền chặt chẽ với việc bảo vệ mọi quyền con người khác. Nó liên quan đến niềm tin rằng một con người luôn thiêng liêng và bất khả xâm phạm, trong bất kỳ tình huống nào và ở mọi giai đoạn phát triển. Con người là mục đích cho chính mình và không bao giờ là phương tiện để giải quyết các vấn đề khác. Một khi niềm tin này biến mất, nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng biến mất, vốn luôn phụ thuộc vào những ý thích nhất thời của những kẻ đang nắm quyền. Chỉ riêng lý trí đã đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm của mỗi cá nhân, nhưng nếu chúng ta cũng nhìn nhận vấn đề từ quan điểm đức tin, thì 'mọi sự vi phạm phẩm giá cá nhân của con người đều kêu lên báo thù với Thiên Chúa và là một sự xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa của cá nhân đó.'" [91] Trong bối cảnh này, điều đáng nhớ là sự cống hiến cao cả và dũng cảm của Thánh Teresa Calcutta trong việc bảo vệ dành cho mọi người được thụ thai.
Mang thai hộ
48. Giáo hội cũng lên tiếng phản đối việc mang thai hộ khiến đứa trẻ vô cùng quý giá trở thành một vật dụng đơn thuần. Về vấn đề này, lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có sự rõ ràng độc đáo: "Con đường dẫn đến hòa bình kêu gọi tôn trọng sự sống, đối với mọi sự sống của con người, bắt đầu từ sự sống của đứa trẻ chưa chào đời trong bụng mẹ, không thể bị dập tắt hoặc biến thành đối tượng buôn bán. Về vấn đề này, tôi cho rằng việc thực hành cái gọi là mang thai hộ là đáng chê trách, nó đại diện cho sự vi phạm nghiêm trọng đến phẩm giá của người phụ nữ và trẻ em, dựa trên việc lợi dụng tình trạng khó khăn về vật chất của người mẹ. Con cái luôn là món quà và không bao giờ là cơ sở của một hợp đồng thương mại. Do đó, tôi bày tỏ hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực cấm đoán việc thực hành này trên toàn thế giới." [92]
49. Trước hết, việc mang thai hộ vi phạm đến phẩm giá của trẻ em. Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều sở hữu một phẩm giá vô hình được thể hiện rõ ràng - mặc dù theo cách độc đáo và khác biệt - ở mọi giai đoạn của cuộc đời: từ lúc thụ thai, khi sinh ra, lớn lên thành nam hay nữ, và trưởng thành. Bởi vì phẩm giá bất khả xâm phạm này, trẻ em có quyền có nguồn gốc hoàn toàn của con người (và không được tạo ra một cách giả tạo) và được nhận ơn huệ của cuộc sống thể hiện cả phẩm giá của người cho và người nhận. Hơn nữa, việc thừa nhận phẩm giá của con người cũng bao hàm việc nhìn nhận mọi khía cạnh của phẩm giá của hôn nhân và việc sinh sản của con người. Xét cho cùng, mong muốn chính đáng để có con không thể biến thành "quyền có con" mà không tôn trọng phẩm giá của đứa trẻ đó với tư cách là người nhận món quà của sự sống. [93]
50. Mang thai hộ cũng vi phạm đến phẩm giá của người phụ nữ, cho dù cô ấy bị ép buộc hoặc tự do lựa chọn. Bởi vì, trong thực hành này, người phụ nữ bị tách khỏi đứa trẻ đang lớn lên trong bụng mình và trở thành một phương tiện phục vụ cho lợi ích hoặc ham muốn tùy tiện của người khác. Điều này hoàn toàn trái ngược với phẩm giá cơ bản của mỗi con người và quyền của mỗi người được công nhận luôn là cá nhân và không bao giờ là công cụ cho người khác.
Trợ tử và Tự tử có hỗ trợ
51. Có một trường hợp đặc biệt về vi phạm phẩm giá diễn ra âm thầm nhưng đang nhanh chóng lan rộng. Nó độc biệt ở cách nó sử dụng một cách hiểu sai lầm về phẩm giá con người để biến khái niệm phẩm giá chống lại chính sự sống. Sự nhầm lẫn này đặc biệt rõ ràng ngày nay trong các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề trợ tử. Ví dụ, luật pháp cho phép trợ tử hoặc tự tử có hỗ trợ đôi khi được gọi là "hành vi qua đời trong phẩm giá". Với điều này, có một quan niệm phổ biến rằng trợ tử hoặc tự tử có hỗ trợ bằng cách nào đó phù hợp với sự tôn trọng phẩm giá của con người. Tuy nhiên, để đáp lại điều này, cần phải nhấn mạnh một cách mạnh mẽ rằng đau khổ không khiến người bệnh mất đi phẩm giá vốn là của riêng họ một cách nội tại và không thể tước đoạt. Thay vào đó, đau khổ có thể trở thành cơ hội để củng cố các mối liên kết thuộc về lẫn nhau và nâng cao nhận thức về giá trị quý giá của mỗi người đối với toàn thể gia đình nhân loại.
52. Chắc chắn, phẩm giá của những người bị bệnh nặng hoặc bệnh nan y đòi hỏi mọi nỗ lực thích hợp và cần thiết để giảm bớt sự đau đớn của họ thông qua chăm sóc giảm nhẹ thích hợp và tránh các phương pháp điều trị tích cực hoặc các thủ thuật y tế không tương xứng. Cách tiếp cận này tương ứng với "trách nhiệm lâu dài trong việc đánh giá các nhu cầu của người bệnh: nhu cầu chăm sóc, giảm đau, và các nhu cầu tình cảm và tinh thần."[94] Tuy nhiên, nỗ lực như vậy hoàn toàn khác biệt - và thực sự trái ngược - với quyết định kết thúc mạng sống của bản thân hoặc của người khác bị gánh nặng bởi đau khổ. Ngay cả trong hoàn cảnh bi thương, cuộc sống con người vẫn mang một phẩm giá phải luôn được duy trì, không bao giờ có thể bị mất đi, và đòi hỏi sự tôn trọng vô điều kiện. Thật vậy, không có hoàn cảnh nào mà cuộc sống con người sẽ không còn đáng tôn trọng và do đó có thể bị chấm dứt: "Mỗi cuộc đời đều có giá trị và phẩm giá như nhau đối với mọi người: sự tôn trọng cuộc sống của người khác cũng giống như sự tôn trọng cho cuộc sống của chính mình."[95] Do đó, giúp đỡ người tự tử tước lấy mạng sống của chính họ là một sự xúc phạm khách quan đến phẩm giá của người yêu cầu điều đó, ngay cả khi người ta làm vậy là để hoàn thành mong muốn của họ: "Chúng ta phải đồng hành với con người đến lúc chết, nhưng không được kích động cái chết hay tạo điều kiện cho bất kỳ hình thức tự tử nào. Hãy nhớ rằng quyền được chăm sóc và điều trị cho tất cả mọi người phải luôn được ưu tiên để những người yếu nhất, đặc biệt là người cao tuổi và người bệnh, không bao giờ bị từ chối. Sống là quyền, không phải cái chết, phải được chào đón chứ không phải được ban hành. Và nguyên tắc đạo đức này liên quan đến tất cả mọi người, không chỉ người Kitô hữu hay người có niềm tin."[96] Như đã đề cập ở trên, phẩm giá của mỗi người, dù yếu đuối hay bị đè nặng bởi đau khổ đến đâu, đều hàm ý phẩm giá của tất cả chúng ta.
Đẩy những người khuyết tật ra bên lề
53. Một tiêu chí để xác minh liệu phẩm giá của mỗi cá nhân trong xã hội có được quan tâm thực sự hay không là sự giúp đỡ dành cho những người yếu thế nhất. Đáng tiếc, thời đại chúng ta không nổi tiếng về sự quan tâm như vậy; đúng hơn, một nền “văn hóa vứt bỏ” đang ngày càng áp đặt chính nó [97]. Để chống lại xu hướng này, tình trạng của những người gặp phải hạn chế về thể chất hoặc tinh thần cần được quan tâm và chăm sóc đặc biệt. Những tình trạng dễ bị tổn thương nghiêm trọng như vậy [98] - xuất hiện nổi bật trong các Phúc Âm - đặt ra những câu hỏi phổ quát về ý nghĩa của việc làm người, đặc biệt bắt đầu từ tình trạng khuyết tật hoặc tàn tật. Vấn đề về sự không hoàn hảo của con người cũng mang những hàm ý văn hóa - xã hội rõ ràng vì một số nền văn hóa có xu hướng đẩy những người khuyết tật ra bên lề hoặc thậm chí đàn áp họ, coi họ là “phế phẩm”. Tuy nhiên, sự thật là mỗi con người, bất kể họ có những điểm yếu dễ bị tổn thương nào, phẩm giá của họ đều bắt nguồn từ việc họ được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương. Do đó, mọi nỗ lực nên được thực hiện để khuyến khích sự hòa nhập và tham gia tích cực của những người bị tàn tật hoặc khuyết tật vào đời sống xã hội và Giáo hội.[99]
54. Trong một viễn cảnh rộng hơn, cần phải nhớ rằng “lòng bác ái này, là cốt lõi tinh thần của chính trị, luôn luôn là tình yêu ưu tiên dành cho những người cần nhất; nó củng cố mọi thứ chúng ta làm vì họ. […] ‘Chăm sóc những người cần thiết phải có sức mạnh và lòng nhân ái, nỗ lực và sự quảng đại giữa một tư duy thực dụng và tư nhân hóa không thể tránh khỏi dẫn đến một‘ văn hóa vứt bỏ ’[…]. Nó liên quan đến việc chịu trách nhiệm về hiện tại với những tình huống bị loại trừ và đau khổ tột cùng, và có khả năng mang lại phẩm giá cho nó. ’ Tương tự, nó cũng sẽ truyền cảm hứng cho những nỗ lực mạnh mẽ để đảm bảo rằng ‘mọi thứ được thực hiện để bảo vệ vị thế và phẩm giá của con người’. ”[100]
Lý thuyết về Giới tính
55. Trước hết, Giáo hội mong muốn “tái khẳng định rằng mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục, đều phải được tôn trọng phẩm giá của mình và được đối xử với sự quan tâm, trong khi ‘mọi dấu hiệu của sự phân biệt đối xử bất công’ cần được cẩn thận tránh.”[101] Vì lý do này, cần lên án việc vi phạm phẩm giá con người khi mà ở một số nơi, không ít người bị bỏ tù, tra tấn và thậm chí bị tước đoạt quyền sống chỉ vì khuynh hướng tình dục của họ.
56. Đồng thời, Giáo hội nhấn mạnh những vấn đề then chốt có tính phê phán hiện hữu trong lý thuyết về giới. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng “con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi sự tôn trọng nhân quyền, phù hợp với cách diễn đạt đơn giản nhưng rõ ràng ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, mà chúng ta kỷ niệm 75 năm ngày ra tuyên ngôn này. Những nguyên tắc này là hiển nhiên và được chấp nhận phổ biến. Đáng tiếc thay, trong những thập kỷ gần đây, đã có những nỗ lực để đưa ra các quyền mới, không hoàn toàn phù hợp với những quyền được xác định ban đầu và không phải lúc nào cũng được chấp nhận. Chúng đã dẫn đến những trường hợp thuộc địa hóa ý thức hệ, trong đó lý thuyết về giới đóng vai trò trung tâm; lý thuyết này cực kỳ nguy hiểm vì nó xóa bỏ sự khác biệt nhằm mục đích bình đẳng cho tất cả mọi người.”[102]
57. Đối với lý thuyết về giới, với tính nhất quán khoa học đang là chủ đề tranh luận đáng kể giữa các chuyên gia, Giáo hội nhắc lại rằng đời sống con người trong tất cả các chiều kích, cả thể chất lẫn tinh thần, đều là ơn ban của Thiên Chúa. Ơn ban này cần được chấp nhận với lòng biết ơn và phục vụ cho điều thiện. Việc mong muốn tự quyết định bản thân, như lý thuyết về giới quy định, tách biệt khỏi sự thật cơ bản rằng đời sống con người là một ơn ban, đồng nghĩa với việc nhượng bộ trước cám dỗ cũ kỹ là tự biến mình thành Thiên Chúa, cạnh tranh với Thiên Chúa đích thực của tình yêu được mặc khải cho chúng ta trong Phúc Âm.
58. Một khía cạnh nổi bật khác của lý thuyết về giới là nó nhằm phủ nhận sự khác biệt lớn nhất có thể tồn tại giữa các sinh vật sống: sự khác biệt về giới tính. Sự khác biệt cơ bản này không chỉ là sự khác biệt lớn nhất mà còn là sự khác biệt đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Trong cặp vợ chồng nam nữ, sự khác biệt này đạt được sự hỗ trợ lẫn nhau tuyệt vời nhất. Do đó, nó trở thành nguồn gốc của điều kỳ diệu không bao giờ ngừng làm chúng ta ngạc nhiên: sự xuất hiện của những con người mới trên thế giới.
59. Theo nghĩa này, việc tôn trọng cả bản thân và người khác là điều quan trọng trước sự gia tăng các tuyên bố về quyền mới do lý thuyết về giới đưa ra. Hệ tư tưởng này “dự kiến một xã hội không có sự khác biệt về giới tính, do đó loại bỏ nền tảng nhân học của gia đình.”[103] Do đó, không thể chấp nhận được rằng “một số hệ tư tưởng thuộc loại này, nhằm đáp ứng những nguyện vọng đôi khi dễ hiểu, lại khẳng định mình là tuyệt đối và không thể nghi ngờ, thậm chí còn chi phối cách nuôi dạy trẻ em. Cần nhấn mạnh rằng ‘giới tính sinh học và vai trò xã hội - văn hóa của giới tính có thể được phân biệt nhưng không thể tách rời.’”[104] Do đó, mọi nỗ lực che khuất tham chiếu đến sự khác biệt giới tính không thể loại bỏ giữa nam và nữ đều phải bị bác bỏ: “Chúng ta không thể tách rời nam tính và nữ tính khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, điều này ưu tiên hơn tất cả các quyết định và kinh nghiệm của chúng ta, và nơi tồn tại các yếu tố sinh học không thể bỏ qua.”[105] Chỉ bằng cách thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt này trong sự hỗ trợ lẫn nhau, mỗi người mới có thể khám phá ra bản thân, phẩm giá và căn tính của mình một cách trọn vẹn.
Chuyển Đổi Giới Tính
60. Phẩm giá của thân thể không thể được coi là thấp hơn phẩm giá của con người. Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo minh nhiên mời gọi chúng ta nhìn nhận rằng “thân thể con người chia sẻ phẩm giá của ‘hình ảnh Thiên Chúa.’”[106] Sự thật ấy đáng được ghi nhớ, đặc biệt khi nói đến việc chuyển đổi giới tính, vì con người được cấu thành không thể tách rời bởi cả thể xác và linh hồn. Trong vấn đề này, thân thể đóng vai trò như bối cảnh sống động nơi nội tâm của linh hồn được hé lộ và thể hiện, cũng như thông qua mạng lưới các mối quan hệ giữa người với người. Cấu thành bản thể con người, cả linh hồn và thân thể đều tham gia vào phẩm giá đặc trưng của mỗi người.[107] Hơn nữa, thân thể tham gia vào phẩm giá đó vì nó được phú cho những ý nghĩa cá nhân, đặc biệt là trong tình trạng giới tính của nó.[108] Chính trong thân thể mà mỗi người nhận ra mình được sinh ra bởi người khác, và thông qua thân thể của họ, nam nữ có thể thiết lập một mối quan hệ yêu thương có khả năng sinh ra những người khác. Dạy về sự cần thiết phải tôn trọng trật tự tự nhiên của con người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định rằng “sự sáng tạo có trước chúng ta và phải được đón nhận như một ơn ban. Đồng thời, chúng ta được kêu gọi bảo vệ tính nhân văn của mình, và điều này có nghĩa là, trước hết, chấp nhận và tôn trọng nó như nó được tạo ra.”[109] Do đó, bất kỳ can thiệp đổi giới tính nào, theo quy định, đều có nguy cơ đe dọa đến phẩm giá độc nhất mà con người nhận được ngay từ khi thụ thai. Điều này không loại trừ khả năng một người có bất thường về cơ quan sinh dục, vốn đã có sẵn ngay từ khi sinh ra hoặc phát triển sau này, có thể lựa chọn nhận sự hỗ trợ của các chuyên gia y tế để giải quyết những bất thường này. Tuy nhiên, trong trường hợp này, một thủ thuật y tế như vậy sẽ không cấu thành việc đổi giới tính theo nghĩa được đề cập ở đây.
Bạo lực Kỹ thuật số
61. Mặc dù sự tiến bộ của công nghệ kỹ thuật số có thể mang lại nhiều khả năng để thúc đẩy phẩm giá con người, nhưng nó cũng ngày càng có xu hướng tạo ra một thế giới mà sự bóc lột, loại trừ và bạo lực gia tăng, thậm chí mở rộng đến mức gây hại cho phẩm giá của con người. Ví dụ, hãy xem xét việc thông qua những phương tiện này, việc bôi nhọ danh tiếng của một người bằng tin tức giả và phỉ báng dễ dàng như thế nào. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng “Không lành mạnh chút nào khi nhầm lẫn truyền thông với sự tiếp xúc ảo đơn thuần. Thật vậy, ‘môi trường kỹ thuật số cũng là môi trường của sự cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, thậm chí đến trường hợp cực đoan của ‘mạng tối’. Truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người dễ bị nghiện, cô lập và dần dần mất liên lạc với thực tế, cản trở sự phát triển các mối quan hệ giữa cá nhân chân thật. Các dạng bạo lực mới đang lan truyền qua mạng xã hội, ví dụ như bắt nạt trên mạng. Internet cũng là kênh để lan truyền nội dung khiêu dâm và bóc lột con người vì mục đích tình dục hoặc thông qua cờ bạc.’”[110] Bằng cách này, một cách nghịch lý, càng có nhiều cơ hội kết nối phát triển trong lĩnh vực này, thì con người càng thấy mình bị cô lập và nghèo nàn trong các mối quan hệ giữa người với người: “Truyền thông kỹ thuật số muốn phơi bày tất cả mọi thứ ra; cuộc sống của mọi người bị soi mói, phơi bày và loan báo, thường là ẩn danh. Sự tôn trọng người khác tan rã, và ngay cả khi chúng ta xa lánh, phớt lờ hoặc giữ người khác cách xa, chúng ta có thể không biết xấu hổ khi dòm ngó vào mọi chi tiết trong cuộc sống của họ.”[111] Những khuynh hướng như vậy đại diện cho một mặt tối của tiến bộ kỹ thuật số.
62. Theo góc nhìn này, nếu công nghệ phục vụ cho phẩm giá con người chứ không gây hại cho nó, và nếu nó thúc đẩy hòa bình thay vì bạo lực, thì cộng đồng nhân loại cần phải chủ động giải quyết những xu hướng này liên quan đến phẩm giá con người và thúc đẩy điều thiện: “Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, ‘giới truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần nhau hơn, tạo ra ý thức về sự thống nhất của gia đình nhân loại, từ đó có thể truyền cảm hứng cho tình đoàn kết và những nỗ lực nghiêm túc để đảm bảo một cuộc sống phẩm giá hơn cho tất cả mọi người. […] Giới truyền thông có thể giúp chúng ta rất nhiều trong việc này, đặc biệt là ngày nay, khi các mạng lưới truyền thông của con người đã đạt được những tiến bộ chưa từng có. Đặc biệt, internet mang lại những khả năng to lớn cho việc gặp gỡ và đoàn kết. Đây thực sự là một điều tốt lành, một ơn ban của Thiên Chúa.’ Chúng ta cần liên tục đảm bảo rằng các hình thức truyền thông hiện đại thực sự đang hướng dẫn chúng ta đến những cuộc gặp gỡ quảng đại với tha nhân, đến việc theo đuổi chân thành toàn bộ sự thật, đến việc phục vụ, đến sự gần gũi với những người thiệt thòi và thúc đẩy lợi ích chung.”[112]
Kết luận
63. Vào dịp kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền được ban hành (1948), Đức Giáo Hoàng Phanxicô tái khẳng định rằng tài liệu này “giống như một bản kế hoạch tổng thể, từ đó nhiều bước đã được thực hiện, nhưng nhiều bước khác vẫn cần được thực hiện, và thật không may, đôi khi, những bước lùi lại đã được thực hiện. Cam kết về nhân quyền không bao giờ kết thúc! Về vấn đề này, tôi luôn đồng hành với tất cả những ai, không ồn ào, trong cuộc sống thường nhật cụ thể, đấu tranh và tự mình trả giá cho việc bảo vệ quyền lợi của những người không được coi trọng.”[113]
64. Với tinh thần này, Giáo hội, với Tuyên bố này, tha thiết thúc giục việc tôn trọng phẩm giá của con người vượt qua mọi hoàn cảnh cần được đặt vào trung tâm của cam kết vì lợi ích chung và là trung tâm của mọi hệ thống pháp luật. Thật vậy, tôn trọng phẩm giá của mỗi người là nền tảng không thể thiếu cho sự tồn tại của bất kỳ xã hội nào tuyên bố được thành lập trên nền tảng luật pháp công bằng chứ không phải trên sức mạnh của quyền lực. Việc thừa nhận phẩm giá con người tạo thành nền tảng để duy trì các quyền cơ bản của con người, những quyền này đi trước và làm nền tảng cho mọi sự chung sống của công dân.[114]
65. Mỗi cá nhân và cả cộng đồng nhân loại đều có trách nhiệm trong việc cụ thể hóa và thực hiện phẩm giá con người. Trong khi đó, các quốc gia không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ phẩm giá con người mà còn phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để phẩm giá đó phát triển trong quá trình thúc đẩy toàn diện con người: “Trong hoạt động chính trị, chúng ta nên nhớ rằng ‘bất chấp vẻ bề ngoài, mỗi người đều vô cùng thánh thiện và đáng được chúng ta yêu thương và cống hiến.’”[115]
66. Ngay cả ngày nay, trước vô vàn vi phạm phẩm giá con người đang đe dọa nghiêm trọng đến tương lai của gia đình nhân loại, Giáo hội vẫn khuyến khích việc thúc đẩy phẩm giá của mỗi cá nhân, bất kể đặc điểm thể chất, tinh thần, văn hóa, xã hội và tôn giáo của họ. Giáo hội làm điều này với hy vọng, tin tưởng vào sức mạnh tuôn ra từ Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã hoàn toàn tiết lộ phẩm giá trọn vẹn của mỗi người nam và nữ. Sự chắc chắn này trở thành lời kêu gọi trong những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô hướng đến mỗi người chúng ta: “Tôi kêu gọi mọi người trên toàn thế giới đừng quên phẩm giá vốn thuộc về chúng ta. Không ai có quyền tước đoạt nó khỏi chúng ta.” [116]
**Đức Thánh Cha Phanxicô, trong buổi tiếp kiến dành cho Hồng y Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin, cùng với Thư ký Ủy Ban Giáo lý của Thánh Bộ, vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, đã phê chuẩn Tuyên bố này, được quyết định tại Phiên họp Thường kỳ của Thánh Bộ vào ngày 28 tháng 2 năm 2024, và ngài ra lệnh công bố. **
Được ban hành tại Rôma, tại Bộ Giáo lý Đức Tin, vào ngày 2 tháng 4 năm 2024, kỷ niệm 19 năm ngày qua đời của Đức Giáo Hoàng Thánh Gioan Phaolô II.
Hồng y Víctor Manuel Card. Fernández
Tổng trưởng
Msgr. Armando Matteo
Thư ký Phòng Giáo lý
[1] John Paul II, Angelus in the Cathedral of Osnabrück (16 November 1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1232.
[2] Francis, Apostolic Exhortation Laudate Deum (4 October 2023), no. 39: L’Osservatore Romano (4 October 2023), III.
[3] In 1948, the United Nations adopted the Universal Declaration of Human Rights, which consists of thirty articles. The word “dignity” appears there five times, in strategic places: in the first words of the Preamble and in the first sentence of Article One. This dignity is declared to be “inherent in all members of the human family” (Preamble) and “all human beings are born free and equal in dignity and rights” (Article 1).
[4] Paying attention only to the modern era, we see how the Church has progressively accentuated the importance of human dignity. The theme was particularly developed in Pope Leo XIII’s Encyclical Rerum Novarum (1891), Pope Pius XI’s Encyclical Quadragesimo Anno (1931) and Pope Pius XII’s Address to the Congress of the Italian Catholic Union of Midwives (1951). The Second Vatican Council, then, developed this issue, devoting an entire document to the subject with the Declaration Dignitatis Humanae (1965) and discussing human freedom in the Pastoral Constitution Gaudium et Spes (1965).
[5] Paul VI, General Audience (4 September 1968): Insegnamenti VI (1968), 886.
[6] John Paul II, Address to the Third General Conference of the Latin American Episcopate (28 January 1979), III.1-2: Insegnamenti II/1 (1979), 202-203.
[7] Benedict XVI, Address to Participants in the General Assembly of the Pontifical Academy for Life (13 February 2010): Insegnamenti VI/1 (2011), 218.
[8] Benedict XVI, Address to Participants in the Meeting of the Development Bank of the Council of Europe (12 June 2010): Insegnamenti VI/1 (2011), 912-913.
[9] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 178: AAS 105 (2013), 1094; quoting John Paul II, Angelus in the Cathedral of Osnabrück (16 November 1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1232.
[10] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 8: AAS 112 (2020), 971.
[11] Ibid., no. 277: AAS 112 (2020), 1069.
[12] Ibid., no. 213: AAS 112 (2020), 1045.
[13] Ibid., no. 213: AAS 112 (2020), 1045; quoting Id., Message to Participants in the International Conference “Human Rights in the Contemporary World: Achievements, Omissions, Negations” (10 December 2018): L’Osservatore Romano, (10-11 December 2018), 8.
[14] The 1948 UN Declaration was followed and further elaborated by the 1966 UN International Covenant on Civil and Political Rights and the 1975 Helsinki Final Act of the Conference on Security and Cooperation in Europe.
[15] Cf. International Theological Commission, Dignity and Rights of the Human Person (1983), Introduction, 3. A compendium of Catholic teaching on human dignity can be found in the Catechism of the Catholic Church, in the chapter entitled, “The Dignity of the Human Person,” nos. 1700-1876.
[16] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 22: AAS 112 (2020), 976.
[17] Boethius, Contra Eutychen et Nestorium, c. 3: PL 64, 1344: “persona est rationalis naturae individua substantia.” Cf. Bonaventure, In I Sent., d. 25, a. 1, q. 2; Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q. 29, a. 1, resp.
[18] Since it is not the purpose of this Declaration to draw up an exhaustive treatise on the notion of dignity, for the sake of brevity, only the so-called classical Greek and Roman culture is mentioned here as an example, as the point of reference for early Christian philosophical and theological reflection.
[19] For example, see Cicero, De Officiis I, 105-106: “Sed pertinet ad omnem officii quaestionem semper in promptu habere, quantum natura hominis pecudibus reliquisque beluis antecedat […] Atque etiam si considerare volumus, quae sit in natura excellentia et dignitas, intellegemus, quam sit turpe diffluere luxuria et delicate ac molliter vivere quamque honestum parce, continenter, severe, sobrie” (Id., Scriptorum Latinorum Bibliotheca Oxoniensis, ed. M. Winterbottom, Oxford 1994, 43). In English translation: “But it is essential to every inquiry about duty that we keep before our eyes how far superior man is by nature to cattle and other beasts […] And if we will only bear in mind the superiority and dignity of our nature, we shall realize how wrong it is to abandon ourselves to excess and to live in luxury and voluptuousness, and how right it is to live in thrift, self-denial, simplicity, and sobriety” (Id., On Duties, tr. W. Miller, Loeb Classical Library 30, Harvard University Press, Cambridge 1913, 107-109).
[20] Cf. Paul VI, Address to the Pilgrimage to the Holy Land: Visit to the Basilica of the Annunciation in Nazareth (5 January 1964): AAS 56 (1964), 166-170.
[21] For example, see Clement of Rome, 1 Clem. 33, 4f: PG 1, 273; Theophilus of Antioch, Ad Aut. I, 4: PG 6, 1029; Clement of Alexandria, Strom. III, 42, 5-6: PG 8, 1145; Ibid., VI, 72, 2: PG 9, 293; Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. V, 6, 1: PG 7, 1137-1138; Origen, De princ. III, 6, 1: PG 11, 333; Augustine, De Gen. ad litt. VI, 12: PL 34, 348; De Trinitate XIV, 8, 11: PL 42, 1044-1045.
[22] Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 29, a. 3, resp.: «persona significat id, quod est perfectissimum in tota natura, scilicet subsistens in rationali natura».
[23] Cf. Giovanni Pico della Mirandola and his well-known text, Orartio de Hominis Dignitate (1486).
[24] For a Jewish thinker, such as E. Levinas (1906-1995), the human being is qualified by his freedom insofar as he discovers himself as infinitely responsible for another human being.
[25] Some great Christian thinkers of the nineteenth and twentieth centuries—such as St. J.H. Newman, Bl. A. Rosmini, J. Maritain, E. Mounier, K. Rahner, H.‑U. von Balthasar, and others—have succeeded in proposing a vision of the human person that can validly dialogue with all the currents of thought present in the early twenty-first century, whatever their inspiration, even Postmodernism.
[26] This is why the “Universal Declaration of Human Rights […] implicitly suggests that the source of inalienable human rights is found in the dignity of every human person” (International Theological Commission, In Search of a Universal Ethics: A New Look at the Natural Law [2009], no. 115).
[27] Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes (7 December 1965), no. 26: AAS 58 (1966), 1046. The entire first chapter of the first part of the Pastoral Constitution (nos. 11-22) is devoted to the “Dignity of the Human Person.”
[28] Second Vatican Ecumenical Council, Declaration Dignitatis Humanae (7 December 1965), no. 1: AAS 58 (1966), 929.
[29] Ibid., no. 2: AAS 58 (1966), 931.
[30] Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Dignitas Personae (8 September 2008), no. 7: AAS 100 (2008), 863. Cf. also Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. V, 16, 2: PG 7, 1167-1168.
[31] Since “by his Incarnation, the Son of God has united himself in a certain way with every man,” the dignity of every man is revealed to us by Christ in its fullness (Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes [7 December 1965], no. 22: AAS 58 [1966], 1042).
[32] Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes (7 December 1965), no. 19: AAS 58 (1966), 1038.
[33] John Paul II, Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), no. 38: AAS 87 (1995), 443, quoting Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. IV, 20, 7: PG 7, 1037-1038.
[34] Indeed, Christ has given the baptized a new dignity, that of being “sons of God”: cf. Catechism of the Catholic Church, nos. 1213, 1265, 1270, 1279.
[35] Second Vatican Ecumenical Council, Declaration Dignitatis Humanae (7 December 1965), no. 9: AAS 58 (1966), 935.
[36] Cf. Irenaeus of Lyons, Adv. Haer. V, 6, 1. V, 8, 1. V, 16, 2: PG 7, 1136-1138. 1141-1142. 1167-1168; John Damascene, De fide orth. 2, 12: PG 94, 917-930.
[37] Benedict XVI, Address at Westminster Hall (17 September 2010): Insegnamenti VI/2 (2011), 240.
[38] Francis, General Audience (12 August 2020): L’Osservatore Romano (13 August 2020), 8; quoting John Paul II, Address to the United Nations General Assembly (2 October 1979), 7 and Id., Address to the United Nations General Assembly (5 October 1995), 2.
[39] Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Dignitas Personae (8 September 2008), no. 8: AAS 100 (2008), 863-864.
[40] International Theological Commission, Religious Freedom for the Good of All (2019), no. 38.
[41] Cf. Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See for the Presentation of New Year’s Greetings (8 January 2024): L’Osservatore Romano (8 January 2024), 3.
[42] John Paul II, Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), no. 19: AAS 87 (1995), 422.
[43] Francis, Encyclical Letter Laudato Si’ (24 May 2015), no. 69: AAS 107 (2015), 875; quoting Catechism of the Catholic Church, no. 339.
[44] Francis, Apostolic Exhortation Laudate Deum (4 October 2023), no. 67: L’Osservatore Romano (4 October 2023), IV.
[45] Ibid., no. 63: L’Osservatore Romano (4 October 2023), IV.
[46] Catechism of the Catholic Church, no. 1730.
[47] Benedict XVI, Message for the Celebration of the 44th World Day of Peace (1 January 2011), no. 3: Insegnamenti VI/2 (2011), 979.
[48] Pontifical Council for Justice and Peace, Compendium of the Social Doctrine of the Church, no. 137.
[49] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 109: AAS 112 (2020), 1006.
[50] Pontifical Council for Justice and Peace, Compendium of the Social Doctrine of the Church, no. 137.
[51] Francis, Address to Participants in the World Meeting of Popular Movements (28 October 2014): AAS 106 (2014), 858.
[52] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 107: AAS 112 (2020), 1005-1006.
[53] Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution Gaudium et Spes (7 December 1965), no. 27: AAS 58 (1966), 1047.
[54] Ibid.
[55] Ibid.
[56] Cf. Catechism of the Catholic Church, no. 2267, and Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to Bishops Regarding the New Revision of Number 2267 of the Catechism of the Catholic Church on the Death Penalty (1 August 2018), nos. 7-8.
[57] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 269: AAS 112 (2020), 1065.
[58] John Paul II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), no. 28: AAS 80 (1988), 549.
[59] Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), no. 22: AAS 101 (2009), 657, quoting Paul VI, Encyclical Letter Populorum Progressio (26 March 1967), no. 9: AAS 59 (1967), 261-262.
[60] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 21: AAS 112 (2020), 976; quoting Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), no. 22: AAS 101 (2009), 657.
[61] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 20: AAS 112 (2020), 975-976. Cf. also the “Prayer to the Creator” at the end of this encyclical.
[62] Ibid., no. 116: AAS 112 (2020), 1009; quoting Francis, Address to Participants in the World Meeting of Popular Movements (28 October 2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[63] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 162: AAS 112 (2020), 1025; quoting Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See (12 January 2015): AAS 107 (2015), 165.
[64] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 25: AAS 112 (2020), 978; quoting Francis, Message for the 2016 World Day of Peace (1 January 2016): AAS 108 (2016), 49.
[65] Francis, Message to Participants in the Sixth Edition of the “Forum de Paris sur la Paix” (10 November 2023): L’Osservatore Romano (10 November 2023), 7; quoting Id., General Audience (23 March 2022): L’Osservatore Romano (23 March 2022), 3.
[66] Francis, Address to the Conference of Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change (COP 28) (2 December 2023): L’Osservatore Romano (2 December 2023), 2.
[67] Cf. Paul VI, Address to the United Nations (4 October 1965): AAS 57 (1965), 881.
[68] John Paul II, Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), no. 16: AAS 71 (1979), 295.
[69] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 258: AAS 112 (2020), 1061.
[70] Francis, Address to the Security Council of the United Nations (14 June 2023): L’Osservatore Romano (15 June 2023), 8.
[71] Francis, Address on the World Day of Prayer for Peace (20 September 2016): L’Osservatore Romano (22 September 2016), 5.
[72] Cf. Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 38: AAS 112 (2020), 983: “For this reason, ‘there is also a need to reaffirm the right not to emigrate, that is, to remain in one’s homeland’”; quoting Benedict XVI, Message for the 99th World Day Migrants and Refugees (12 October 2012): AAS 104 (2012), 908.
[73] Cf. Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 38: AAS 112 (2020), 982-983.
[74] Ibid., no. 39: AAS 112 (2020), 983.
[75] Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), no. 62: AAS 101 (2009), 697.
[76] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 39: AAS 112 (2020), 983.
[77] We might recall here Pope Paul III’s declaration on the dignity of those people found in the lands of the “New World” in the Bull Pastorale Officium (29 May 1537), where the Holy Father established—under penalty of excommunication—that the inhabitants of those territories, “even if outside the bosom of the Church, are not […] to be deprived, of their freedom or the ownership of their goods, for they are men and, therefore, capable of faith and salvation” («licet extra gremium Ecclesiae existant, non tamen sua libertate, aut rerum suarum dominio […] privandos esse, et cum homines, ideoque fidei et salutis capaces sint»): DH 1495.
[78] Francis, Address to Participants in the Plenary of the Pontifical Council for the Pastoral Care of Migrants and Itinerant People (24 May 2013): AAS 105 (2013), 470-471.
[79] Francis, Address to the United Nations Organization, New York (25 September 2015): AAS 107 (2015), 1039.
[80] Francis, Address to New Ambassadors Accredited to the Holy See on the Occasion of the Presentation of the Letters of Credence (12 December 2013): L’Osservatore Romano (13 December 2013), 8.
[81] Francis, Address to Participants in the International Conference on Human Trafficking (11 April 2019): AAS 111 (2019), 700.
[82] XV Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, Final Document (27 October 2018), no. 29.
[83] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 23: AAS 112 (2020), 977, quoting Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 212: AAS 105 (2013), 1108.
[84] John Paul II, Letter to Women (29 June 1995), no. 4: Insegnamenti XVIII/1 (1997), 1874.
[85] Ibid., no. 5: Insegnamenti XVIII/1 (1997), 1875.
[86] Catechism of the Catholic Church, no. 1645.
[87] Francis, Address on the Occasion of the Marian Celebration – Our Lady of the Gate (20 January 2018): AAS 110 (2018), 329.
[88] Francis, Address to the Participants in the Plenary Assembly of the Congregation for the Doctrine of the Faith (21 January 2022): L’Osservatore Romano (21 January 2022), 8.
[89] John Paul II, Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), no. 58: AAS 87 (1995) 466-467. On the subject of the respect due to human embryos, see Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Donum Vitae (22 February 1987): “The practice of keeping alive human embryos in vivo or in vitro for experimental or commercial purposes is totally opposed to human dignity” (I, 4): AAS 80 (1988), 82.
[90] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 213: AAS 105 (2013), 1108.
[91] Ibid.
[92] Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See (8 January 2024): L’Osservatore Romano (8 January 2024), 3.
[93] Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Dignitas Personae (8 September 2008), no. 16: AAS 100 (2008), 868-869. All these aspects are recalled in the then-Congregation’s Instruction Donum Vitae (22 February 1987): AAS 80 (1988), 71-102.
[94] Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter Samaritanus Bonus (14 July 2020), V, no. 4: AAS 112 (2020), 925.
[95] Cf. Ibid., V, no. 1: AAS 112 (2020), 919.
[96] Francis, General Audience (9 February 2022): L’Osservatore Romano (9 February 2022), 3.
[97] See especially Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), nos. 18-21: AAS 112 (2020), 975-976: “A ‘Throwaway’ World.” No. 188 of the same Encyclical goes so far as to identify a “throwaway culture.”
[98] Cf. Francis, Address to Participants in the Conference Organized by the Pontifical Council for Promoting the New Evangelization (21 October 2017): L’Osservatore Romano (22 October 2017), 8: “Vulnerability is intrinsic to the essential nature of the human person.”
[99] Cf. Francis, Message for the International Day of Persons with Disabilities (3 December 2020): AAS 112 (2020), 1185-1188.
[100] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), nos. 187-188: AAS 112 (2020), 1035-1036; cf. Id., Address to the European Parliament, Strasbourg (25 November 2014): AAS 106 (2014), 999, and Id., Address at the Meeting with Authorities and the Diplomatic Corps in the Central African Republic, Bangui (29 November 2015): AAS 107 (2015), 1320.
[101] Francis, Post-Synodal Apostolic Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), no. 250: AAS 108 (2016), 412-413; quoting Catechism of the Catholic Church, no. 2358.
[102] Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See for the Presentation of New Year’s Greetings (8 January 2024): L’Osservatore Romano (8 January 2024), 3.
[103] Francis, Apostolic Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), no. 56: AAS 108 (2016), 334.
[104] Ibid.; quoting Fourteenth Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, Relatio Finalis (24 October 2015), 58.
[105] Ibid., no. 286: AAS 108 (2016), 425.
[106] Catechism of the Catholic Church, no. 364.
[107] This also applies to the respect due to the bodies of the deceased; for example, see Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction Ad Resurgendum cum Christo (15 August 2016), no. 3: AAS 108 (2016), 1290: “By burying the bodies of the faithful, the Church confirms her faith in the resurrection of the body, and intends to show the great dignity of the human body as an integral part of the human person whose body forms part of their identity.” More generally, see also International Theological Commission, Current Problems of Eschatology (1990), no. 5: “People Called to Resurrection.”
[108] Cf. Francis, Encyclical Letter Laudato si’ (24 May 2015), no. 155: AAS 107 (2015), 909.
[109] Francis, Apostolic Exhortation Amoris Laetitia (19 March 2016), no. 56: AAS 108 (2016), 344.
[110] Francis, Post-Synodal Apostolic Exhortation Christus Vivit (25 March 2019), no. 88: AAS 111 (2019), 413, quoting the XV Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops, Final Document (27 October 2018), no. 23.
[111] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 42: AAS 112 (2020), 984.
[112] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 205: AAS 112 (2020), 1042; quoting Id., Message for the 48th World Communications Day (24 January 2014): AAS 106 (2014), 113.
[113] Francis, Angelus (10 December 2023): L’Osservatore Romano (11 December 2023), 12.
[114] Cf. International Theological Commission, Propositions on the Dignity and Rights of the Human Person (1983), no. 2.
[115] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), no. 195: AAS 112 (2020), 1038, quoting Id., Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), no. 274: AAS 105 (2013), 1130.
[116] Francis, Encyclical Letter Laudato si’ (24 May 2015), no. 205: AAS 107 (2015), 928.