Con người là một hữu thể có tính xã hội, đến độ người ta có thể nói: “Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi”. Với tính xã hội ấy, giả như ai ai, lúc nào cũng là những con người tuyệt vời, dễ thương, tốt lành, đáng mến, thì cuộc sống chung sẽ êm đềm và hạnh phúc biết là dường nào. Thế nhưng cộng đoàn lý tưởng đó chỉ có thể tìm thấy nơi Thiên đàng, còn trong cuộc sống đời này, đó là điều không thể. Sống với người khác không ít lần khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, mệt mỏi, bực tức, chán ghét đến mức chỉ muốn đóng cửa, ở một mình trong phòng, và ước sao đừng có ai quấy rầy mình. Sở dĩ có mặt tiêu cực đó là vì càng tiếp xúc lâu, chúng ta càng nhận ra nhiều nét xấu xí, khó ưa của người khác. Thực tế chẳng mấy dễ chịu này đòi hỏi những thái độ và cách ứng xử đúng đắn, bằng không, cuộc sống của chúng ta sẽ nhanh chóng trở nên ngổn ngang, ngột ngạt, tăm tối, bị nhấn chìm bởi muôn vàn nỗi bực dọc, chán ghét, thậm chí thù hận. Thật may mắn, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay sẽ trao cho chúng ta chìa khóa quý giá để hóa giải tình trạng căng thẳng và bế tắc ấy. Chìa khóa này có thể được tóm lược qua hai khía cạnh: khắt khe với lầm lỗi của mình và bao dung với thiếu sót của người khác.
Trước hết, với lối nói cường điệu quen thuộc của người Do Thái, Chúa Giêsu thức tỉnh chúng ta khỏi cơn cám dỗ quen thuộc mà ai cũng ít nhiều mắc phải, đó là xem nhẹ, thậm chí phớt lờ những lầm lỗi của mình. Chúng ta dễ coi lỗi lầm của bản thân là chuyện cá nhân, “tôi làm tôi chịu, chẳng mắc mớ gì đến ai”. Thế nhưng, việc làm sai trái của một người, không ít thì nhiều, cũng đều ảnh hưởng tiêu cực đến những người khác: nếu không gây ra những thiệt hại rõ ràng, thì chí ít, đó cũng là gương mù gương xấu. Tựu chung lại, chúng đều tạo cớ cho người khác vấp ngã. Điều này không hề vô hại như chúng ta vẫn lầm tưởng. Trái lại, Chúa Giêsu nhấn mạnh đó là một tội trạng rất nghiêm trọng. Thật vậy, “buộc cối đá lớn vào cổ và xô xuống biển” là một hình phạt vô cùng tàn khốc, thế mà Chúa Giêsu lại khẳng định nó chẳng là gì so với hậu quả của việc “làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã”. Nhưng tại sao làm cớ cho chỉ một người lại nghiêm trọng như vậy? Lý do giải thích cho điều này đến từ sự cao quý của mỗi người trước mặt Thiên Chúa.
Trong dự phóng đầy yêu thương của Thiên Chúa, mỗi người không phải như những hạt cát bé nhỏ, vô danh, bị mất hút giữa sa mạc đời bao la. Trái lại, dù có tầm thường đến mấy theo tiêu chuẩn của người đời, Thiên Chúa vẫn nhìn họ như một tuyệt tác độc nhất, vô nhị, là kết tinh của quyền năng và tình yêu của Ngài. Nơi Đấng “bỏ chín mươi chín con ở lại để đi tìm con chiên lạc”, không hề có chỗ cho lối toan tính dựa trên số lượng kiểu “vắng mợ chợ vẫn đông”, “mất một nhưng vẫn còn vô số thì việc mất đó có nhằm nhò gì”. Mỗi người đều là vô giá, ngay cả khi họ có cảm tưởng mình chẳng có gì nổi bật giữa đám đông để được chú ý, thì Thiên Chúa vẫn luôn dõi theo họ. Việc nhân loại chỉ có mình bạn hay có tỷ tỷ người, không hề ảnh hưởng đến mức độ tình yêu của Ngài dành cho bạn, vì mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương theo cách thức hoàn hảo nhất. Khi suy ngẫm về sự quý giá của con người với Thiên Chúa như thế, thánh Tôma Aquinô đã dẫn chúng ta đến với một nhận định vô cùng ngỡ ngàng: “Dù chỉ để cứu độ một người, Con Thiên Chúa vẫn nhập thể”. Một điều quý giá đối với Thiên Chúa, đến độ Ngài thấy đáng để lấy máu châu báu của Con Một Ngài chuộc về như thế, mà chúng ta dám hủy hoại, làm cho nó hư mất, thì đó chẳng phải là một tội phạm thượng hết sức nặng nề sao?
Mặc dù rõ ràng đó là một tội rất nghiêm trọng như chúng ta đã phân tích ở trên, nhưng giả như người khác cứ làm cớ như thế, phải chăng chúng ta có quyền “buộc cối đá lớn vào cổ rồi xô xuống biển”? Chắc chắn là không! Nếu làm thế, có lẽ nhân loại này đã tuyệt chủng từ rất lâu rồi. Việc xét xử không thuộc về chúng ta, mà thuộc về Thiên Chúa, Đấng “thưởng phạt vô cùng”. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1). Thánh Phaolô cũng dạy chúng ta: “Anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến” (1Cr 4,5). Trái lại, trước lỗi lầm của người khác, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải có lòng bao dung, tha thứ, không phải là “quá tam ba bận”, nhưng là luôn luôn. Nhưng phải chăng Đức Giêsu không hiểu việc đó khó khăn đến mức nào, mà đòi hỏi chúng ta một việc dường như quá sức như thế?
Chúng ta thường nghĩ khi tha thứ là chúng ta đang làm ơn cho những người đang xúc phạm mình, nhưng thực ra không hẳn như thế! Với lòng bao dung, chính chúng ta là người đầu tiên hưởng lợi, bởi sẽ được mặc một tấm áo giáp kiên cố, bảo vệ bản thân khỏi những vết thương do sự tấn công của những lỗi lầm của người khác. Thật thế, tha thứ là cách thức giữ cho tâm hồn mình được an yên giữa một thế giới đầy rẫy những lỗi lầm. Lý do để chúng ta phải tha thứ luôn mãi không phải lúc nào cũng xuất phát từ việc người xúc phạm mình xứng đáng nhận được điều đó, nhưng trước hết là vì những điều đáng ghét kia, dù nặng nề đến đâu, cũng không đáng để chúng ta phải vì chúng mà từ bỏ sự bình an và hạnh phúc nội tâm của mình. Không tha thứ đồng nghĩa đánh mất sự yên bình trong tâm hồn, biến những nỗi đau nhất thời thành khối u di căn, gây ra sự khổ tâm dai dẳng, vắt kiệt niềm vui, thậm chí hủy hoại tương lai tốt đẹp của mình. Quả vậy, có những người chỉ vì một lời nói, một hành động sơ suất của người khác, mà cứ nung nấu ngọn lửa của sự ấm ức, bực tức, thậm chí thù hận trong lòng, để rồi cứ dằn vặt, khó chịu mãi không nguôi, thậm chí khi có dịp thuận tiện, ngọn lửa tai quái đó sẽ bùng lên thành tội ác và nhấn chìm cuộc đời người ấy trong vòng lao lý. Như thế chẳng phải là đáng tiếc lắm sao?
Không chỉ mang đến sự bình an đời này, sự tha thứ còn mở ra cho chúng ta lối thoát trong ngày đứng trước tòa Thiên Chúa. Thật vậy, khi đối diện với Thiên Chúa, đâu có ai dám tự tin mình hoàn hảo, “mười phân vẹn mười”. Ai cũng là những tội nhân trước mặt Ngài. Nếu chúng ta nhất quyết đòi trừng phạt những lỗi lầm của người khác, làm sao chúng ta có thể mong sự tha thứ cho những sai quấy của mình? Không tha thứ cho người khác, cũng chính là tự kết án chính mình. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,15), “Anh em xét đoán thế nào thì cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7,2). Chẳng phải trong kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu nguyện “xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ với chúng con” sao? Rồi nữa, khi chúng ta biết tha thứ, chúng ta sẽ bình an đối diện với Thiên Chúa trong tâm thế của những người con, đã cố gắng “nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện”. Bởi vì, tha thứ là làm theo mẫu gương của chính Chúa, “Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Thế nhưng, khắt khe với bản thân và tha thứ cho người khác luôn mãi, là những điều vượt quá khả năng của con người. Chúng ta sẽ thất bại thảm hại nếu cậy dựa vào sức riêng của mình. Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một gợi ý đó là lòng tin, một thứ có sức mạnh biến những điều không thể thành có thể. Nếu chỉ với đức tin bé bằng hạt cải, mà chúng ta có thể bảo cây dâu bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, thì lẽ nào với lòng tin, chúng ta lại không thể sống lời mời gọi xem ra có vẻ khó khăn của Chúa trong Tin Mừng hôm nay sao? Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức về sự yếu đuối của bản thân, và biết chân thành, tha thiết kêu lên Chúa như các Tông đồ: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Chúng con biết rằng mình quá yếu đuối để bước theo con đường hoàn thiện Chúa đã chỉ ra cho chúng con. Xin dùng đức tin mà nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con.