Đạo Công giáo với tư duy người Việt
Thứ tư - 21/07/2021 04:42
1749
Đạo Công giáo ra đời ở Trung Đông nhưng phát triển mạnh ở châu Âu nên khi nó du nhập vào nước ta nó cũng mang theo dấu ấn của văn minh, văn hóa của châu lục này đến Việt Nam. Đã có nhiều nghiên cứu nói về đóng góp của đạo Công giáo với văn hóa Việt cũng như tác động trở lại của văn hóa Việt với tôn giáo này. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới sự ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo với tư duy của người Việt.
1- Đóng góp của đạo Công giáo với tư duy người Việt
Do mục tiêu kép “ hương liệu và các linh hồn” nên trên các tàu thuyền viễn dương sang phương Đông thường có mặt các giáo sĩ. Các thương gia khi qua phương Đông muốn có những giáo sĩ vừa giúp lo liệu phần hồn khi phải lênh đênh trên biển cả sóng gió nhiều ngày lại có thể giúp phiên dịch, giao thương, dự đoán thời tiết…nên họ chọn lựa các giáo sĩ tài ba. Do đó, nhiều giáo sĩ khi đến Việt Nam truyền giáo là những nhà khoa học hoặc có nhiều tri thức khoa học. Họ từng được đào tạo bài bản ở các trường đạo, đời danh tiếng ở châu Âu. Bởi vậy, khi đến nước ta, họ cũng mang theo phương pháp tư duy logic, khoa học và truyền bá nó lúc truyền giáo. Chúng ta có thể nhận khá rõ vấn đề này khi đọc lại những bài giáo lý đầu tiên mà các giáo sĩ dạy dỗ các tân tòng. Trong cuốn “ Phép giảng tám ngày” của Alexandre de Rhodes, một cuốn sách được ấn hành rất sớm từ năm 1651 ở Roma bằng chữ quốc ngữ. Để giới thiệu một tôn giáo mới xa lạ với người Việt, các nhà truyền giáo phải kết hợp phương pháp sư phạm, tình cảm và lý trí, niềm tin và khoa học. Các khái niệm của đạo Công giáo rất mới mẻ nhưng được dẫn dắt rất rạch ròi, dễ hiểu với trình độ dân trí bấy giờ. Nhằm nói với dân chúng không phải thờ trời mà thờ Đức Chúa Trời, các nhà truyền giáo tách bạch:
“ Nhà thì khác, chủ nhà thì khác. Trời thì khác, Chúa Trời thì khác Như thế nhà là vật chẳng biết điều gì. Trời cũng vậy, những xác không chẳng biết đí gì, chẳng thông lẽ gì sốt. Vì vậy chẳng nên thờ trời. Lạy Đức Chúa Trời, thờ Đức Chúa Trời thì mới phải”(1).
Các nhà truyền giáo cũng thông qua các bài giảng giáo lý để phổ biến tri thức khoa học đến dân chúng. Chẳng hạn để giải thích cho giáo dân không nên gọi đạo Công giáo là đạo Phalang ( Pháp) với lý lẽ khá thuyết phục:
“ Chớ có nói đạo này là đạo Phalang vì đạo Đức Chúa Trời là sáng và trước lớn hơn mặt trời… Nói thí dụ, mặt trời soi đến nước nào, thì làm ngay sáng nước ấy dù mà nước khác chưa thấy mặt trời mọc lên hãy còn chịu tối đêm. Song le, chẳng có ai gọi mặt trời là mặt trời nước ấy dù đã chịu mặt trời soi sáng nó trước” (2).
Suy luận là một phương pháp của tư duy logic ở trình độ trừu tượng có lẽ xa lạ với dân trí của nước ta lúc bấy giờ nhưng lại thấy phổ biến trong các bài giảng của các nhà truyền giáo. Ví dụ kiểu suy luận tam đoạn luận:
“Trong Đại minh có lời rằng: “ thiên phù địa tải”, nghĩa là trời che, đất chở. Vậy thì trời là nhà, đất là nền. Hễ là nhà nào thì có kẻ làm nên mới nên, cũng là có chủ nhà mà chớ. Vì vậy thì có trời, cũng có thật Chúa Trời làm nên trời thì mới có. Đền đài, nhà cửa ắt có thợ khéo làm cho nên. Người nào mới đẻ ra, thì thật có cha mẹ sinh đẻ mà chớ. Huống lọ là trời đất thật có Chúa Trời trước làm cho nên, sau thì mới nên, mới có” (3).
Như vậy tiền đề 1 của suy luận là: Có nhà cửa là do có thợ làm nên
Tiền đề thứ 2 là: Có trời đất
----------------------------------------- Kết luận suy ra là: Có người làm ra (tức có Đức Chúa Trời)
Rất nhiều tri thức khoa học, văn minh kỹ thuật phương Tây được truyền bá vào Việt Nam thông qua các nhà truyền giáo. Alexandre de Rhodes từng giảng cho chúa Trịnh ( Trịnh Tráng) nghe về nhật thực, nguyệt thực, về hình học Euclide. Năm 1626, giáo sĩ Baldinotti ( người Ý) cũng được vời đến phủ chúa: “Chúa sai một hoạn quan trong phủ đến tìm tôi để tôi giảng cho chúa biết cuộc vận hành các tinh tú, vì chúa biết tôi giỏi về toán học…rồi chúa hỏi tôi về những vấn đề toán học liên quan đến trái địa cầu”(4). Các giáo sĩ cũng đưa vào nước ta cách chữa bệnh theo lối Tây y, dệt vải khổ rộng, kỹ thuật in bằng con chữ rời đúc nổi chứ không phải lối khắc bản gỗ truyền thống của ta…Rõ ràng, đạo Công giáo thông qua các giáo sĩ đến từ ngoại quốc đã trở thành chiếc cầu nối chuyển tải, giao lưu văn hóa, văn minh phương Tây vào Việt Nam. Tri thức của các nhà truyền giáo phương Tây lúc đó đã làm kinh ngạc cả những bộ óc tài ba của người Việt bấy giờ. Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) đã phải thốt lên kinh ngạc: “Giáo sĩ các nước Âu, Ba la…đàm luận về trời đất một cách sâu sắc, mới lạ vô cùng. Lý luận chính trị và lịch pháp có nhiều điều mà tiền Nho ta chưa tìm ra, chưa nói ra được…Bàn về địa lý, địa cầu, nước non, sông biển, thủy triều lên xuống, gió mưa phần nhiều hợp lý. Họ nói, thiên hạ có 4 đại châu: Á, Âu, Phi, Mỹ. Châu Á lớn nhất gầm trời” (5).
Một số khái niệm của đạo Công giáo vốn rất khó hiểu, khó diễn đạt và vẫn được coi là “màu nhiệm” như khái niệm “một Chúa Ba ngôi”. Nếu không có tư duy triết học khó có thể trình bày được. Các nhà truyền giáo đã dùng hình ảnh một mặt trời vừa nóng, vừa sáng , vừa là đám lửa khổng lồ: ba tư cách vẫn là một mặt trời. Hoặc có tính khoa học hơn khi so sánh ba trạng thái của nước: lỏng, rắn, hơi nhưng bản chất vẫn là nước. Chính vì có tư duy logic nên trong các cuộc tranh luận với các tôn giáo khác, các giáo sĩ Công giáo dễ dàng ghi điểm thắng. Một cuốn sách có tên là “Hội đồng tứ giáo” in ở nhà in Tân Định năm 1887 và được tái bản nhiều lần sau ở Phú Nhai (Bùi Chu, ảnh giữa) vì được ưa thích. Nội dung ghi lại cuộc tranh luận giữa đại diện 4 tôn giáo là Nho, Phật, Đạo và Công giáo. Phía Công giáo có 2 linh mục là Jacinto Gia (1743-1773) và Vincente Liêm (1732- 1773). Trọng tài là quan lớn, chú của Trịnh Đô Vương. Cuộc tranh luận xảy ra năm 1786 đời Lê Cảnh Hưng. Ví dụ, khi một Nho gia chất vấn Công giáo lúc con cái ăn uống, không mời cha mẹ thì sao gọi là hiếu? Đại diện Công giáo trả lời:
“Vốn người ta ăn uống của dương thế cho đặng khỏe sống nhưng mà khi đã chết thì thôi vì ngũ quan hư nát, ngũ tạng đã rã rời, còn ăn đặng gì nữa mà mời…Còn linh hồn là linh thiêng hằng sống, chẳng hay mòn, chẳng hay nát, cũng chẳng ăn uống của thế gian này đặng. Vả lại linh hồn trọng hơn xác muôn phần, nếu lại lấy của phàm trần xác ăn mà mời linh hồn ăn chẳng những chẳng làm ích gì mà lại ra như trêu chọc nhạo cười cha mẹ vậy” (6).
Mặc dù cuốn sách trên có thể là tư biện nhưng nó cũng cho thấy tư duy luận lý của những giáo sĩ Công giáo khá sắc sảo so với trình độ dân trí bấy giờ.
Đặc biệt, các giáo sĩ đã đưa tư duy làm kinh tế vào để bày cho người Việt:
“Hãy lấy tiền đặt nợ mà tậu ruộng cũng nên. Mùa nào rẻ thóc, rẻ hàng hãy mua, mùa nào mắc sẽ bán cũng nên.
Hoặc chẳng hay buôn bán, thì hãy hợp cùng người buôn. Mình sẽ ra tiền mà nó sẽ ra công; hoặc được lãi thì chia cùng nhau, hoặc lỗ vốn thì mình sẽ chịu thiệt vốn mình, nó sẽ chịu thiệt công nó cũng nên.
Hoặc là mua lãi cách này: hãy cho người nào thật thà 10 quan hay 100 quan mặc lòng, mà vốn ấy trao cho người ấy mặc người ấy cầm trọn đời, cùng đời con cái, đời cháu chắt người ấy cũng mặc lòng; mà 1 năm nó sẽ trả như 10 quan hay 2 quan 5, hay là 3 quan lãi: một trăm là 25, là 30, chốc ấy cũng nên.
Song le mình chẳng được đòi vốn bao giờ, một ăn lãi mà thôi. Còn nó muốn chuộc, đừng trả lãi ấy nữa mà trả vốn bao giờ cho mình, mặc nó.
Buông vốn ra cho người ta mà mua lãi cách ấy mới là được, đã có lề luật thánh Ighêrêxa dạy vậy” (7).
Người Việt mình vốn trọng sĩ, trọng nông coi thường buôn bán, xếp thương gia vào hạng cuối: sĩ, nông, công, thương và gọi người buôn bán là “bọn con buôn” thì tư duy cho vay lấy lãi, rẻ mua bán đắt trên thật là mới mẻ với người Việt từ thế kỷ XVII.
Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng sâu nặng quan niệm của Nho giáo phong kiến, vì vậy tư tưởng trong nam khinh nữ, đa thê khá phổ biến trong xã hội gây ra bao cảnh oan trái cho đời sống phụ nữ khiến thi sĩ Hồ Xuân Hương phải thốt lên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Đạo Công giáo du nhập vào đem theo một giáo luật mới văn minh và tiến bộ. Đó là hôn nhân một vợ, một chồng. Điều này đã được phổ cập trong hương ước nhiều làng Công giáo. Ví dụ hương ước làng Vĩnh Trị, điều 103 viết: “ Làng toàn tòng Công giáo chỉ được phép nhất phu, nhất phụ thôi. Vậy ai còn vợ cả mà lấy vợ hai thì làng không ăn ngôi với nữa để khỏi làm gương xấu cho kẻ khác”(8).
Đạo Công giáo cũng phê phán tục lệ mê tín như kiêng ngày xấu, đặt tên con xấu, chọn đất chôn táng, đốt vàng mã khi giỗ chạp ở nước ta…Đắc Lộ viết : “Vì thế chúng tôi đã công khai công kích dị đoan và chế diễu những tập quán kỳ dị này rằng, họ dám gửi cho cha mẹ những áo giấy mà những kẻ nghièo hèn nhất cũng không thèm mặc” (9).
Một trong những ảnh hưởng của đạo Công giáo với tư duy người Việt chính là chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ là hình thức của tư duy. Nó ghi lại suy nghĩ lời nói của con người. Nhờ chữ quốc ngữ, người Việt có thể biết đọc, biết viết dễ hơn nhiều so với học chữ Nho, chữ Nôm. Do đó các chí sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục ở Việt Nam đã coi việc học chữ quốc ngữ là một trong sáu kế để mở mang dân trí. Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét:
“Việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, hay việc latinh hóa chữ Việt, về lâu dài, đây là một thành tựu văn hóa lớn có tác dụng sâu xa đến việc phổ biến tri thức, thông tin đến việc phát triển văn hóa giáo dục cận hiện đại Việt Nam. Thành tựu văn hóa này gắn với lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam và thật điên rồ khi muốn tách bạch văn hóa và tôn giáo trong đời sống xã hội ngày xưa, chỉ thừa nhận văn hóa là tích cực còn tôn giáo là tiêu cực” (10).
Nhà văn Kim Lân cũng khẳng định: “ Tôi rất biết ơn Alexandrede Rhodes. Hội nhà văn cần dựng tượng ông ấy. Cái chữ nó ghê gớm lắm. Không có ông ấy thì tôi, bà Anh Thơ, ông Nguyên Hồng…không thể trở thành nhà văn được” (11).
Chính chữ quốc ngữ có cùng hệ với chữ latinh nên là một yếu tố thuận lợi để người Việt dễ dàng xóa nạn mù chữ, hội nhập quốc tế, tiếp nhận thông tin, khoa học nước ngoài khi họ học ngoại ngữ hay cài phần mềm trên máy tính font tiếng Việt.
Cũng chính nhờ tư duy khoáng đạt của đạo Công giáo, không bị lệ thuộc vào giáo điều của Nho gia mà nhiều người Công giáo ở nước ta như linh mục Đặng Đức Tuấn (1806-1874), sĩ phu Đinh Văn Điền (không rõ năm sinh, mất, sống dưới thời vua Tự Đức), đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ (1830- 1871) đã thoát khỏi quan niệm hủ nho để đưa ra những cải cách táo bạo nhằm chấn hưng đất nước, đủ sức đánh đuổi thực dân Pháp. Rất nhiều kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ được coi là “tư duy đi trước thời đại” mà ngày nay đọc lại vẫn làm kinh ngạc nhiều người. Ông đưa ra nhiều quan niệm triết học duy vật. Bàn về mối quan hệ giữa chuyện cơm áo với lễ nghĩa, ông viết:
“Bởi vì có đủ cơm ăn, áo mặc rồi mới nói đến chuyện vinh hay nhục mà muôn việc ở đời là sự nuôi nấng. Nếu không có đủ nuôi sống, bản thân không còn được bảo tồn thì nói gì đến chuyện khác ngoài bản thân…Nếu bị cái nghèo đói thúc bách để kiếm sống cũng không xong còn đâu mà bàn lễ nghĩa” (12).
Ông cũng cho rằng thế giới là vô cùng vô tận nhưng con người cũng có khả năng nhận thức thế giới. Ông đưa ra khái niệm “độ” khi chuyển hóa mặt đối lập và đặc biệt dám nhận định ngay từ giữa thế kỷ XIX rằng: “Ánh sáng cũng là vật chất trong vũ trụ” (13). Đây là tư duy mới mẻ không chỉ với người Việt mà ngay cả với vật lý hiện đại lúc bấy giờ.
Một số văn nghệ sĩ người Công giáo lại đóng góp sắc thái riêng vào nền văn học nghệ thuật nước nhà. Còn nhiều nhà khoa học người Công giáo lại đem đến một phương pháp nghiên cứu thiên về thực chứng và duy lý như L. Cadiere, Kim Định, Bùi Đức Sinh, Trương Bá Cần…Linh mục triết gia Lương Kim Định (1915-1997) là người đã đặt nền móng cho Việt Triết hay Việt Nho nay từ những năm 60 của thế kỷ XX đã mạnh dạn viết:
“Cả chữ Nho hay đạo Nho đều do người Việt tộc trước, rồi người Tàu mới công thức hóa nghĩa là chau chuốt thành câu văn gọn. Vì thế Nho là của chung Tàu- Việt, còn gọi là Việt Nho… Vì thế muốn nghiên cứu về nguồn gốc văn hóa Việt thì phải dùng cả sách Nho cũng như phải nghiên cứu về nước Tàu, sự hình thành ra nước Tàu. Vì nước Tàu sinh ra và lớn lên từ trên lưng nước Việt. Nước Việt ví như khóm tre to lớn, nước Tàu khởi thủy như đọt măng nhưng hoàn cảnh thuận lợi, măng mọc phát triển tràn ngập, lật ngược thế cờ biến Việt chủ thành ra Việt khách” (14).
Khi Lương Kim Định viết những tác phẩm tương tự, có một số người cho ông là tư biện, huyễn hoặc nhưng những phát hiện về khảo cổ, di truyền và lịch sử ngày nay đã coi những luận điểm của ông là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
Tóm lại, đạo Công giáo khi truyền bá vào Việt Nam đã có nhiều ảnh hưởng đến việc phát triển tư duy người Việt. Dĩ nhiên, chẳng có sự tác động nào đơn phương xảy ra một chiều. Phép biện chứng là phổ biến nên cũng thể hiện trong trường hợp này. Tư duy của người Việt cũng ảnh hưởng trở lại đạo Công giáo.
2- Tư duy người Việt tác động làm biến đổi đạo Công giáo từ một tôn giáo xa lạ thành tôn giáo gần gũi với người Việt
Là một tôn giáo độc thần, lại bị tiêm nhiễm quan niệm cái gì của Tây phương cũng là văn minh. Nên buổi đầu truyền giáo, các giáo sĩ ngoại quốc thường muốn khai hóa bản địa theo lối sống phương Tây. Các tân tòng phải bỏ tên cúng cơm cha mẹ đặt cho để nhận một tên Tây như Catarina, Anna, Phanxicô, Gioan… đến nỗi có một chứng nhân tử đạo đã được tôn phong lên bậc chân phước năm 2000 và đặt làm quan thày các giáo lý viên ở Việt Nam cũng không rõ tên họ là gì đành phải ghép quê quán làm tên. Đó là chân phước Anrê Phú Yên. Người ta cũng yêu cầu các tân tòng phải cắt tóc ngắn, thay đổi trang phục khác với truyền thống. Đây là những yêu cầu kỳ lạ, khiến ngay một số giáo sĩ có tinh thần tiến bộ cũng phản đối. Alexandre de Rhodes viết:
“Trong thành và miền lân cận, có nhiều lương dân đang theo học để theo đạo. Nhưng tôi không thể giấu hai điều làm chúng tôi không hài lòng khi qua khu vực này. Theo tôi, đó là việc làm cho người lương dân không muốn vào đạo ta. Tôi cũng thấy khó xử. Người ta tỏ ra rất tôn trọng và mơn trớn lương dân, thế nhưng khi đã rửa tội cho họ rồi thì người ta không còn thèm nhìn tới họ nữa. Hơn nữa, khi người ta trở lại, người ta bắt họ phải cởi y phục xứ sở, y phục của tất cả những người lương dân. Không thể tưởng tượng được, lương dân rất bất bình. Tôi không hiểu tại sao, người ta lại đòi cái điều mà Chúa chúng ta không đòi hỏi. Đó là điều làm cho họ tránh xa phép Rửa và thiên đàng. Đối với tôi, tôi biết rằng, ở Trung Quốc, tôi đã cực lực phản đối những kẻ bắt giáo dân tân tòng phải cắt tóc, họ có thói để tóc dài như tóc đàn bà - nếu không họ không được tự do đi lại trong xứ. Tôi đã bảo những kẻ ấy rằng: Phúc âm bắt họ gạt bỏ sai lầm khỏi tâm trí chứ không phải mớ tóc trên đầu” (15).
Các giáo sĩ cũng phê phán việc thờ cúng tổ tiên vì coi đó là “ mê tín và rối đạo”. Thư chung của giám mục địa phận Đông ngày 7-6-1939 đưa ra 36 quy định cấm liên quan đến thờ kính tổ tiên: “ 1-Đức thánh Pha Pha thấy mọi sự vô đạo quen làm với mà thờ kẻ chết là sự dối trá hết…6- Cấm lạy là cùng cắt tóc tang…33- Bổn đạo bắt chước kẻ ngoại đạo mà dẫy mả, cải táng chỗ nọ, chỗ kia để được gặp may, gặp sự lành thì là sự rối”(16).
Thế nhưng, những thất bại khi truyền giáo cùng với sự phản kháng của văn hóa Việt, các nhà truyền giáo buộc phải thay đổi não trạng. Các giáo sĩ cũng lấy tên Việt đặt cho mình như Alexandre de Rhodes gọi là Đắc Lộ, Pigneau de Behain gọi là Bá Đa Lộc, giám mục Gendraeu gọi là Đông…Các tên thánh, hội đoàn Công giáo du nhập vào Việt Nam như Vincente, Benedicto, Sulpicien cũng được gọi tên thuần Việt là Vinhsơn, Biển Đức, Xuân Bích…
Vấn đề thờ cúng tổ tiên là một thách đố của giáo hội Công giáo ở châu Á chứ không riêng gì Việt Nam. Cuộc tranh cãi được gọi tên là “ vấn đề nghi lễ Trung Hoa” giữa hai phái cấp tiến và bảo thủ kéo dài từ thế kỷ XVII qua thế kỷ XVIII, trải qua 10 đời Giáo hoàng và gây tổn thất rất nặng nề cho giáo hội vì sự chống đối của chính quyền và nhân dân bản xứ với tôn giáo này. Một số nhà truyền giáo khi đến Việt Nam đã nhận ra quan niệm của người xứ này là “ nhập gia tùy tục”. Chính giám mục Bá Đa Lộc đã thừa nhận:
“Tất cả những gì người ta nói về cách thức vái lạy người chết sự thờ cúng ngẫu tượng (culte d’idolatrie) mà người ta gán cho sự vái lạy đó là sự lố bịch, không thể chấp nhận được với những ai từng sống ở xứ này…Chúng ta đã câu nệ quá nhiều. Cần loại bỏ sự mê tín, nhưng nếu ai đó đi quá xa thì sẽ lạc đường và sẽ tạo ra chướng ngại vật cho sự truyền giáo”(17).
Sau Huấn dụ Plane compertum est của Vatican cho phép người Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên được thờ cúng tổ tiên bằng hương hoa ngày 8-12-1939 thì ở Việt Nam, ngày 14-6-1965, các giám mục cũng ra thông cáo cho phép giáo dân được thờ cúng tổ tiên. Thông cáo viết:
“Nhiều hành vi cử chỉ xưa ở Việt Nam, có tính cách tôn giáo nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình tập quán đã thay đổi nhiều nên nay chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính với tổ tiên và các anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ và thái độ, nghi lễ có tính thế tục, lịch sự và xã giao đó, giáo hội chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn khuyến khích cho nó được diễn tả bằng các cử chỉ riêng biệt cho mỗi nước, mỗi xứ”.
Vì là tôn giáo độc thần nên đạo Công giáo coi các tôn giáo khác đều là đạo dối, mê tín, lầm lạc. Các nhà truyền giáo khi đến Việt Nam cũng mang định kiến như thế. Đắc Lộ viết: “Song le Đại minh vốn có phân ra làm ba đàng cả. Đàng thứ nhất là kẻ về đàng hay chữ, gọi là đạo Nho. Đàng thứ hai là đàng thờ quỷ mà làm việc dối gọi là đạo Đạo. Đàng thứ ba là kẻ thờ Bụt gọi là đạo Bụt. Sự đàng sau này là bởi nước Indian mà ra” (18). Do đó, đạo Công giáo cũng quy định cấm đoán giáo dân không được kính thờ các thần thánh của tôn giáo khác, thậm chí không được bén mảng đến đình, chùa: “1- Những đối tượng không được thờ kính như ma quỷ, những đấng sáng lập các tôn giáo khác như Đức Khổng Tử, Đức Phật, ông bà ông vải. 2- Những nơi cấm đến là đền, chùa, những đình làng có thờ thần,; không được cho mượn các đồ thờ” (19).
Nhưng người Việt Nam lại có quan niệm đa thần “ bên cha cũng cúng, bên mẹ cũng vái”, “tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo đồng quy” thì giáo hội Công giáo cũng dần dần thay đổi, đặc biệt sau sự đổi mới của Công đồng Vaticano II (1962-1965), đến ngày20-10-1964, các giám mục Việt Nam đã ra thông cáo: “công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác”. Đến Thư chung năm 2001, Hội đồng giám mục Việt Nam còn đi xa hơn:
“Trên đất nước ta, đa số đồng bào là người có tín ngưỡng và tôn giáo, cần có sự đối thoại để hiểu biết, tôn trọng và yêu thương và cùng nhau thăng tiến cuộc sống của mọi người…Tôn giáo phải là nền tảng cho người ta xích lại gần nhau. Ngoài ra, sự gặp gỡ thân tình giữa các vị lãnh đạo tôn giáo các cấp sẽ tác động trên tín đồ, cổ vũ sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, hợp tác với nhau trong việc phục vụ hạnh phúc đồng bào”.
Đến Thư chung 2003, giáo hội Công giáo gọi các tôn giáo khác là “ tôn giáo bạn”. Người ta thấy các linh mục, giám mục đến chúc mừng Phật đản của Phật giáo hay ngày sinh Đức Thái Tôn của Cao Đài, ngày Noel của Tin Lành. Người dân các tôn giáo cùng sống chung trong các “làng xôi đỗ”, cùng chung tay xây nhà thờ, nhà chùa hay đình miếu.
Văn hóa của Việt Nam cũng làm thay đổi nhiều sinh hoạt phụng vụ, lễ nghi, hội họa, âm nhạc, kiến trúc của Công giáo. Trước đây, giáo hội lên án việc thờ cúng tổ tiên thì bây giờ giáo hội đã dùng nghi thức dâng hương trước bàn thờ, di ảnh người quá cố. Một số nơi còn cho phép tính hữu được ghi lời cầu nguyện đọc và đốt đi trước bàn thờ, tượng ảnh. Buổi đầu, sách vở, thánh ca, ngôn ngữ trong phụng vụ là tiếng Latinh, bây giờ là tiếng Việt và cả tiếng các dân tộc thiểu số như Cơ Ho, Ba Na, Xtiêng. Kiến trúc nhà thờ trước đây phổ cập là kiểu gothic, roman, bây giờ có nhiều nhà thờ mang đậm bản sắc văn hóa Việt như nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình, ảnh trên), nhà thờ Pleichuet (Gia Lai), nhà thờ Lạng Sơn…Tranh ảnh Công giáo ngày trước chủ yếu là từ phương Tây đưa vào mang phong cách của thời Phục Hưng. Bây giờ có nhiều tranh, tượng đạo mang phong cách Việt như tranh sơn mài Giáng sinh của Nguyễn Gia Trí, Đức Mẹ Việt Nam của Nam Phong, Madalena dưới chân Thập giá của Lê Văn Đệ…Về thánh nhạc cũng thế, trong nhà thờ bây giờ cùng với các bài hát bằng tiếng latinh còn có nhiều thánh ca bằng các làn điệu dân ca do các nhạc sĩ Công giáo người Việt sáng tác và cũng nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả nước ngoài. Từ dân ca quan họ Bắc Ninh, hát then xứ Lạng, cho đến những giai điệu thấm đẫm rừng núi Tây Nguyên đều có thể thấy trong thánh nhạc.
Một tác động nữa làm thay đổi tư duy của giáo hội Công giáo tại Việt Nam là đội ngũ giáo sĩ từ chỗ do người nước ngoài cai quản, đến chỗ được thay thế bằng đội ngũ giáo sĩ người Việt. Người Việt không chỉ là đủ khả năng là giáo sĩ cao cấp ở Việt Nam với 6 Hồng y, 46 giám mục và Tổng giám mục mà còn được bổ nhiệm là Hồng y, Tổng giám mục, giám mục ở Vatican và nước ngoài nữa (ảnh dưới).
Đạo Công giáo từ chỗ xa rời thậm chí một bộ phận quay lại với dân tộc thì giờ đây đã đưa ra đường hướng đúng đắn là: “ Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” (Thư chung 1980, số 9) và con đường đồng hành cùng dân tộc trước đây chỉ là sự tham gia của các cá nhân đơn lẻ như các linh mục Nguyên Thần Đồng, Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Văn Tường thì giờ đây đã có hàng triệu người Công giáo tham gia trong phong trào thi đua yêu nước qua các cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc và xây dựng đất nước hiện nay. Con đường đồng hành cùng dân tộc ngày càng triển nở và vươn xa.
Văn hóa, lối sống của người Việt đã biến đổi đạo Công giáo từ phương Tây xa lạ thành đạo Công giáo Việt Nam chứ không phải đạo Công giáo ở Việt Nam. Nó vẫn mang căn tính Công giáo nhưng lại đậm bản sắc Việt. Đây cũng có thể là bài học tốt cho nước ta trong việc hội nhập quốc tế hiện nay.
Chú thích
*Phó Viện trưởng Viện Trí Việt, Giám đốc Trung tâm Tôn giáo học. Bài đọc trong Hội thảo Khoa học quốc gia do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức năm 2015, được in trong cuốn “Văn hoá tôn giáo với phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị năm 2015 và cũng được đăng trên Vietcatholic.net, nhiều Tạp chí khoa học như Nghiên cứu Tôn giáo, Công tác tôn giáo…
1, 2, 3, 18- A. Rhodes: Phép giảng tám ngày, Đại kết ấn hành 1998, tr.15-16; tr.25; tr.11-12; tr.104-105
4, 7, 16- Phạm Huy Thông: Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn hóa Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2012, tr.32; tr.87-88; tr.141
5- Trích trong “Vân đài loại ngữ”, dẫn theo Báo Người Công giáo VN số 16, ngày 30-8-1992
6- Vấn đề thờ cúng tổ tiên, Tọa đàm khoa học tại Tòa TGM Huế tháng 10-1988, Kỷ yếu 1999.
8- Hương ước làng Vĩnh Trị, Nghĩa Hưng, Nam Định (1942), Viện Thông tin KHXH, ký hiệu số Hư 2031
9- A. Rhodes: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Đại kết 1994, tr.57
11- Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb Trăm Hoa, USA 1991, tr.186-187
12- Trả lời phỏng vấn báo Thanh niên ngày 26-1-2002, tr.5
13- Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb Tp HCM 1988, tr.191; tr.419
14- Kim Định: Nguồn gốc văn hóa Việt theo chữ Nho và đạo Nho, www/caholic.org/kimdinh
15- A. Rhodes: Hành trình truyền giáo, Đại kết 1994, tr.16
17, 19- Vấn đề thờ cúng tổ tiên, Kỷ yếu hội thảo khoa học ở Huế năm 1999, Lưu hành nội bộ, tr.75; tr.8
Tác giả: TS. Phạm Huy Thông*