Nơi ươm mầm những người hành hương hy vọng

Thứ sáu - 27/12/2024 20:35  173
z6171974862707 5391aa99faf0b70fa56677d9877ea235Vào ngày lễ Thánh Gia, với đoạn Tin Mừng này, Giáo Hội tưởng niệm hai nghi thức được cử hành cùng một lúc trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem: lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Đức Giê-su, con trai đầu lòng. Chung quanh con trẻ sáu tuần lễ này, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se không chỉ “tuân theo Luật Chúa truyền”, nhưng họ còn ngạc nhiên bỡ ngỡ trước lời sấm của cụ già Si-mê-on về Hài Nhi. Điều này cho thấy thánh Giu-se đã nhận con trẻ này như đứa con ruột thịt của mình. Như vậy, thánh Lu-ca, vốn đã nhấn mạnh đức đồng trinh của Đức Ma-ria, không ngần ngại nói: “cha mẹ của Đức Giê-su”. Luật Mô-sê đòi buộc người mẹ, sau bốn mươi ngày sinh con trai và sau tám mươi ngày sinh con gái, dâng hy lễ thanh tẩy: một con chiên một năm tuổi, nhưng nếu người nghèo, một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Vì thế, của lễ của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se là của lễ của một gia đình nghèo.

Lễ thánh hiến con trai đầu lòng là đòi buộc, nhưng không cần phải lặn lội xa xôi đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. Ở đây, thánh Lu-ca đề cao lòng đạo đức tuyệt vời của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Vào giây phút Đức Giê-su, được trao ban hoàn toàn vào tay của con người và được dâng tiến lên Cha Ngài, Thánh Thần linh hứng cho hai nhân vật khả kính: cụ già Si-mê-on và bà ngôn sứ An-na, mặc khải sứ mạng của Hài Nhi này.Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Không gì là không thể với Thiên Chúa. Trong mọi kế hoạch và hành động của mình, Thiên Chúa có nhiều cách thế để thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng[1].

Thế nhưng, trong kế hoạch và chương trình cứu độ nhân loại chúng ta, Thiên Chúa lại chọn một cách thế xem ra là tầm thường và nhiều khó khăn, gian khổ. Đó là: sai Con Một của mình xuống thế làm người – một biến cố quan trọng và vĩ đại mà chúng ta mới vừa cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng kỉ niệm xong. Không những thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Thiên Chúa lại đã muốn Người được sinh ra trong một gia đình bình thường, có cha có mẹ như chúng ta. Đó là một gia đình thực thụ, một gia đình đặc biệt mà trong thánh lễ Chúa Nhật hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính: gia đình Thánh Gia với gồm thánh Giu-se, Mẹ Ma-ri-a và Chúa Giê-su.

Như vậy, chúng ta thấy được rằng, với việc Ngôi Hai nhập thể làm người, sinh ra trong một gia đình nhân loại bình thường, cách nào đó, Người muốn mặc cho đời sống gia đình, một ý nghĩa mới; cũng như việc Giáo Hội thiết lập lễ Thánh Gia Thất để chỉ cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của đời sống gia đình và hình ảnh gương mẫu của gia đình thánh mà mỗi gia đình nhân loại chúng ta cần phải bắt chước noi theo.

Gia đình đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển trong đời sống của Giáo Hội cũng như xã hội bởi vì gia đình chính là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội sẽ tốt. Còn đối với Giáo Hội, Thánh Gio-an Phao-lô II gọi gia đình là “Nền tảng của Giáo Hội”. Và Đức Phao-lô VI lại cho gia đình là “Cung thánh của Giáo Hội”, là “trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy”. Thậm chí, Đức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê còn cho rằng, gia đình là một “lối tu đức” riêng biệt, để rồi qua đó, gia đình trở thành một “trung tâm ánh sáng”, đem ngọn lửa hồng chiếu soi kẻ khác. Ngày nào, mỗi gia đình là một “trung tâm ánh sáng”, thế giới này sẽ là một đại gia đình đầy ánh sáng, đầy hy vọng.

Nói như thế, để mỗi người chúng ta trong cương vị và bổn phận riêng, thấy được trách nhiệm của mình trong việc sống chiều kích xã hội và đức tin ngang qua việc xây dựng đời sống gia đình hằng ngày. Bởi vì, đoạn kết của Tông Huấn Gia đình Kitô hữu cuả Thánh Gio-an Phao-lô II chỉ rõ: “Tương lai của nhân loại sẽ đến ngang qua gia đình[2]!”.

Thế nhưng, ngày nay, ý thức sâu xa về tầm quan trọng trên đây của gia đình ngày càng trở nên rõ ràng và mãnh liệt, bởi vì đang có rất nhiều gia đình đang ngày càng gặp nhiều nguy hiểm, rơi vào khủng hoảng cũng như chịu tổn thương nặng nề trong nền văn hóa và xã hội đương thời của chúng ta. Nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp nơi gia đình đang mất dần. Thay vào đó là những vấn nạn đầy nhức nhối và đau lòng: ly dị, ly thân, phá thai, bạo hành gia đình, thất nghiệp, đói kém, khổ đau… Cùng với đó, cũng phải thấy được rằng, chính những điều này đòi hỏi mỗi gia đình chúng ta khám phá lại những giá trị, những đòi hỏi và những trách nhiệm của mình, của gia đình mình.

Chính vì vậy, qua Lời Chúa hôm nay, thánh Lu-ca cho chúng ta một mẫu gương hoàn hảo của gia đình Thánh Gia, và đồng thời qua đó, Giáo Hội mời gọi mỗi gia đình chúng ta noi theo gương mẫu hoàn hảo này để sống đức tin, và từ đó, trở nên là một gia đình thánh.

Gia đình sống đức tin trước hết là một gia đình hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa cùng chu toàn mọi lề luật Chúa. Qua hai bài đọc được trích từ sách Huấn ca và thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê[3], chúng ta thấy được mẫu gương sống đức tin của hiền nhân Si-rác khuyên con cái phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu[4] và thực hành những đức tính như “thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại”, đặc biệt là “yêu thương” đó là mối dây tuyệt hảo liên kết mọi thành viên nên một trong đời sống gia đình và cộng đoàn. Còn trong bài Tin Mừng, thánh Lu-ca cho chúng ta một mẫu gương hoàn hảo của gia đình Thánh Gia về việc sống đức tin. Thật vậy, khi sống đức tin, thánh Giu-se, Mẹ Ma-ri-a luôn tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa trong cuộc đời của mình. Và Chúa Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể. Người cũng sống trong một gia đình và hoàn toàn tuân phục theo thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi biến cố.

Mặt khác, Thánh gia còn thể hiện việc sống đức tin qua hành động chu toàn lề luật. Và có thể nói, nhờ chính việc chu toàn lề luật, siêng năng cầu nguyện và sống gắn bó với Thiên Chúa, các Ngài nhận ra và mau mắn thi hành ý Chúa trong cuộc sống.

Bên cạnh đó, gia đình sống đức tin còn là gia đình hiệp nhất và yêu thương. Nói cách khác, gia đình đó phải được xây dựng và đặt nền tảng trên tình yêu, và trên hết, tình yêu đó phải là tình yêu dành cho Thiên Chúa. Gia đình Thánh Gia đã sống chứng nhân đức tin cho tình gia đình hiệp nhất yêu thương đấy. Nơi đó, Đức Mẹ và Thánh Giuse yêu thương nhau, cùng hợp sức nuôi dạy Chúa Giêsu. Còn Đức Giêsu thì hằng yêu thương và vâng phục các ngài.

Chính khi noi theo mẫu gương của gia đình Thánh Gia trong việc sống đức tin khi vâng theo thánh ý Chúa, khi chu toàn lề luật Chúa, khi sống gắn bó với Chúa qua cầu nguyện, trong việc giữ các giới răn và sống bác ái, cũng như biết sống hiệp nhất yêu thương, gia đình chúng ta cũng trở thánh một gia đình thánh. Nên thánh ngay trong chính bổn phận hằng ngày của chúng ta, của gia đình chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời[5].

[2] Thánh Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio, số 86
[3] Thành phố Cô-lô-xê miền Tiểu Á đã khai sinh một cộng đoàn Ki-tô hữu. Cộng đoàn này được Epaphras, bạn đồng hành đồng thời cũng là môn đệ của thánh Phao-lô, thiết lập. Những sai lạc đạo lý, những biện luận về quyền năng của thiên thần, những thực hành khổ chế, những khuynh hướng Do thái giáo gây nguy hiểm cho đức tin của cộng đoàn non trẻ này. Thánh Phao-lô hiện đang bị giam cầm, nên không thể đến tận nơi được. Vì thế, thánh nhân gởi bức thư này cho các tín hữu Cô-lô-xê. Thánh nhân tập chú giáo huấn của mình vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc sống Ki-tô hữu vào điều cốt lõi: sống hiệp nhất với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức ái.
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta đoạn trích của thư này và mời gọi chúng ta đọc nó trong ý hướng của ngày lễ hôm nay: đời sống gia đình: “Anh em hãy có lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong đời sống cộng đoàn, huống gì trong đời sống gia đình, ở đó tình yêu phải là mối dây liên kết tuyệt hảo. Theo thói quen của mình, thánh Phao-lô mời gọi tạ ơn và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chung: “Hãy đem hết lòng biết ơn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, những khúc thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh hứng”, nghĩa là cầu nguyện tự phát. Đoạn thư hoàn tất với vài lời khuyên bảo đặc thù về bổn phận giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Thánh nhân khai triển những điều này trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5, 21-32.

 
[4] Ông Si-rắc là một hiền nhân Do thái vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông mở trường dạy học và ghi lại vốn kinh nghiệm và những gẫm suy thế sự của mình. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri, sau đó được cháu nội của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 130 trước Công Nguyên.
Tác phẩm của ông là sách dạy đạo đức về cách ăn nếp ở thực tiễn. Ông viết tác phẩm này vì muốn trung thành với niềm tin của cha ông mình, đồng thời không muốn dân mình bị ảnh hưởng do văn hóa ngoại giáo chung quanh, đặc biệt do sức quyến rũ của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều đề tài rất đa dạng. Sách được điểm xuyến bằng những câu châm ngôn dễ nhớ và được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội cũng xem sách này như Sách Thánh của mình.
Sách cho thấy ông nhất mực gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch khôn ngoan. Trong chương 3, hiền nhân Si-rắc khai triển phận làm con là phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ mình, một trong Mười Giới Răn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20, 12; Đnl 5, 16).

“Kẻ kính cha sẽ được trường thọ”, đây là lời chúc phúc cổ truyền nhất. Cuộc sống trường thọ là phần thưởng dành cho con cái có tấm lòng đạo hiếu đối với cha mẹ được đánh giá cao nhất vào thời kỳ những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được biết đến (chỉ vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, viễn cảnh niềm tin vào cuộc sống mai sau mới xuất hiện).

Còn ngạc nhiên hơn nữa đối với lời hứa “Kẻ thờ cha thì được thứ tha tội lỗi”, cũng như “người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng”, nghĩa là lập công tích đức để được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi của mình. Cách nói này tương tự với câu cuối của đoạn trích hôm nay: “Vì việc hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con”.

Trong Do thái giáo sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, người ta rất nhạy bén trước tội lỗi và bận lòng thanh luyện nội tâm. Hiền nhân Si-rắc thuộc vào những thế hệ này: gẫm suy giáo huấn của các ngôn sứ. Đến phiên mình, ông ca tụng việc thực hành đức hạnh hơn việc tế tự thuần túy bên ngoài. Theo đường hướng này, ông khai triển rất xa và ở đây ông đánh giá việc thảo kính cha mẹ như hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt ở đây: trong khi các ngôn sứ rất bận lòng đến ơn cứu độ của toàn thể dân chúng, thì các hiền nhân quan tâm nhiều hơn đến ơn cứu độ cá nhân.

Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng hiền nhân Si-rắc cẩn trọng trích dẫn bổn phận đối với cha và bổn phận đối với mẹ gần như đối xứng với nhau. Điều này rất hiếm trong Cựu Ước ở đó người cha thường chiếm vai trò gần như độc tôn.
[5] Lời tổng nguyện Lễ Thánh Gia.

Tác giả: Đức Hữu

***+***
xkta
lpv
gkpv
tvcv
***+***
ra khoi
lnth
LIÊN KẾT

 

 

 

11.jpg 8.jpg 9.jpg 10.jpg 13.jpg
PAGE FACEBOOK
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập377
  • Máy chủ tìm kiếm341
  • Khách viếng thăm36
  • Hôm nay42,253
  • Tháng hiện tại1,310,590
  • Tổng lượt truy cập81,712,730
Copyright © 2022 thuộc về Tòa Giám Mục Bùi Chu
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Bùi Chu
Địa chỉ: Xuân Ngọc - Xuân Trường - Nam Định

Email: bttbuichu@gmail.com

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây