Trong cuộc tiếp kiến dành cho Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, vào sáng ngày 23/3/2023, Đức Thánh Cha đã phê chuẩn các sắc lệnh nhìn nhận nhân đức anh hùng của 3 nữ tu, 2 nữ giáo dân và 1 linh mục dòng Salêdiêng.
Teresa Enríquez de Alvaredo
Nữ giáo dân đầu tiên là cô Teresa Enríquez de Alvaredo, sống ở Tây Ban Nha vào giữa thế kỷ 15 và 16. Từ khi còn nhỏ cô đã được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu đức tin. Cô kết hôn và có bốn người con, nhưng sau đó trở thành góa phụ. Đức tin và tình yêu kiên vững của cô dành cho Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã khiến cô tách mình ra khỏi sự hào nhoáng của cung đình Tây Ban Nha để chuyên tâm cầu nguyện và hoạt động bác ái. Nghỉ hưu ở Torrijos, gần Toledo, cô sống một cuộc sống khổ hạnh và hoạt động vì những người nghèo và bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Cô đóng vai trò là một người mẹ và nhà giáo dục cho những bé trai mồ côi vì bệnh dịch và nạn đói, chăm sóc các thiếu nữ và phụ nữ đường phố, chăm sóc người bệnh và làm việc để phục hồi việc tôn thờ Bí tích Thánh Thể. Cô cũng quản lý tài sản của gia đình mình một cách thông minh và thận trọng, phân bổ phần lớn cho các hoạt động từ thiện và xây dựng những nơi thờ phượng. Cô cũng sử dụng nó để giúp thành lập một số hội đoàn, một đan viện và bốn tu viện. Cô qua đời năm 1529. Trong thời gian gần đây, gương mẫu của cô đã được nhắc lại tại các Đại hội Thánh Thể.
Maria Domenica Lazzeri
Giáo dân thứ hai là cô Maria Domenica Lazzeri, sinh tại tỉnh Trento của Ý, là một nữ giáo dân sống ở Capriana vào những năm 1800. Gia đình cô rất sùng đạo và đã dạy cô những chân lý của đức tin cũng như những công việc lao động trên cối xay và trên cánh đồng.
Khi còn nhỏ, cô đã cống hiến hết mình để giúp đỡ những người nghèo khó và đau khổ, và cùng mẹ chăm sóc những người bị ốm vì một trận dịch nghiêm trọng và truyền nhiễm, chính cô cũng mắc phải căn bệnh này. Cô bắt đầu bỏ ăn, khó thở, sốt và run, đến mức co giật.
Vào tháng 1/1835, cô nhận được dấu thánh trên hai bàn tay, bàn chân và ở bên phải lồng ngực. Một tháng sau, cô nhận được dấu mão gai trên đầu, máu chảy ra vào mỗi thứ Sáu. Cô đã biến trải nghiệm của mình về những hiện tượng phi thường như vậy thành một cơ hội để cầu nguyện và dâng hiến bản thân. Cô chịu đau đớn khi mang dấu thánh và không muốn thu hút sự chú ý của công chúng. Cô cảm thấy mình thuộc về Chúa và Thánh Giá của Người một cách đặc biệt và làm chứng cho tình yêu của Người. Cô qua đời năm 1848, hưởng dương 33 tuổi.