Ngày 20/07/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”. Huấn thị này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn vào ngày 27/06 và được Bộ Giáo sĩ ký ngày 29/06. Huấn thị mở rộng các hướng dẫn trước đây về giáo xứ, bắt đầu bằng tài liệu Ecclesia de mysterio (1997) và Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn (2002). Với Huấn thị này, Bộ Giáo sĩ đề ra các dự án khác nhau để cải cách giáo xứ giữa tình trạng thiếu ơn gọi và canh tân sự dấn thân của giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng.
Dưới đây là bản dịch Tiếng Việt của Đức Giám mục Luy Nguyễn Anh Tuấn và Nhóm Dịch thuật HĐGMVN được công bố trên website chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 09/09/2022.
BỘ GIÁO SĨ
HUẤN THỊ
CẢI TỔ MỤC VỤ CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ
ĐỂ PHỤC VỤ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG CỦA HỘI THÁNH
1. Suy tư Giáo hội học của Công đồng Vaticanô II, cùng với những chuyển biến xã hội và văn hóa trong những thập niên vừa qua, dẫn đến quyết định cho các Hội Thánh địa phương phải tổ chức lại việc ủy thác chăm sóc mục vụ tại cộng đoàn giáo xứ. Điều này có thể phát sinh những kinh nghiệm mới, nhờ việc đề cao chiều kích hiệp thông và, dưới sự hướng dẫn của các mục tử, thực hiện sự kết hợp hài hòa các đặc sủng và ơn gọi nhằm phục vụ công cuộc Loan báo Tin Mừng, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của việc Phúc-âm-hóa ngày nay.
Đức Giáo hoàng Phanxicô, khởi đầu sứ vụ Phêrô, đã nhắc đến tầm quan trọng của “tinh thần sáng tạo”, nghĩa là “tìm kiếm những cách thức mới”, tức là “tìm cách thức tốt nhất để Loan báo Tin Mừng”; về điều này, Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Hội Thánh, và cả Bộ Giáo Luật, đều cung cấp cho chúng ta rất nhiều khả năng, nhiều tự do để tìm thực hiện những điều ấy”[1].
2. Những hoàn cảnh được phác thảo trong Huấn thị này trình bày một cơ hội quý giá để hoán cải mục vụ theo hướng truyền giáo. Các cộng đoàn giáo xứ sẽ tìm thấy trong tài liệu này lời mời gọi ra khỏi chính mình, khi đưa ra những phương thế cải tổ, cả về mặt cơ cấu, trong tinh thần hiệp thông và cộng tác, gặp gỡ và liên kết, thương xót và quan tâm đến công cuộc loan báo Tin Mừng.
3. Hoán cải mục vụ là một trong những chủ đề chính trong “giai đoạn mới của công cuộc Loan báo Tin Mừng”[2] mà Hội Thánh được mời gọi phải thúc đẩy ngày nay, nhờ đó các cộng đoàn Kitô hữu ngày càng trở nên những trung tâm giúp mọi người gặp gỡ Đức Kitô.
Về phương diện này, Đức Thánh Cha khuyên nhủ rằng: “Nếu có điều gì khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là việc có rất nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi từ tình bằng hữu với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không còn ý nghĩa và mục đích cho đời sống. Thay vì sợ đi lạc, tôi mong rằng chúng ta nên sợ mình bị giam hãm trong những cơ chế khiến chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo, trong những luật lệ khiến chúng ta thành những quan tòa khắt khe, trong những thói quen khiến cho chúng ta cảm thấy an toàn, trong khi ở cửa nhà chúng ta người ta đang đói khát và Đức Giêsu không ngừng nói với chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6,37)”[3].
4. Được thúc đẩy bởi mối quan tâm này, Hội Thánh “trung thành với truyền thống của mình và đồng thời cũng ý thức sứ mệnh phổ quát của mình, có thể liên kết với nhiều hình thức văn hóa khác nhau, qua đó, chính Hội Thánh cũng như các nền văn hóa được thêm phong phú”[4]. Sự gặp gỡ phong nhiêu và đầy sáng tạo giữa Tin Mừng và văn hóa sẽ dẫn đến sự tiến bộ thực sự: một mặt, Lời Thiên Chúa nhập thể trong lịch sử nhân loại và đổi mới lịch sử ấy; mặt khác, “Hội Thánh […] có thể được thêm phong phú và thực sự là như thế nhờ sự phát triển của đời sống xã hội nhân loại”[5], nhờ đó sứ mạng mà Chúa Kitô trao phó cho Hội Thánh được đào sâu và diễn tả tốt hơn trong thời đại chúng ta ngày nay.
5. Hội Thánh loan báo Ngôi Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngôi Lời Thiên Chúa đó, Đấng hằng yêu thích ở giữa loài người với sự giàu có vô tận của Người[6], được các dân tộc khác nhau trên khắp thế giới đón nhận, khơi dậy nơi họ những khát vọng cao quý nhất, như lòng khát khao Thiên Chúa, phẩm giá của từng con người, sự bình đẳng giữa mọi người và sự tôn trọng sự khác biệt trong gia đình nhân loại duy nhất, sự đối thoại như phương thế để tham dự, nỗi khát khao hòa bình, sự tiếp đón như một biểu lộ tình huynh đệ và liên đới, cùng nhau chăm lo thế giới tạo thành với tinh thần trách nhiệm[7].
Cho nên, thật không thể tưởng tượng được rằng một sự mới mẻ như thế mà chưa được loan truyền đến tận cùng trái đất, lại còn giảm sút đi, hay còn tệ hơn nữa là biến mất[8]. Để cho hành trình của Ngôi Lời được tiếp tục, cộng đoàn Kitô hữu phải có một quyết định truyền giáo dứt khoát “có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, cách hành động, giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là để tự bảo tồn”[9].
6. Việc hoán cải theo hướng truyền giáo đề cập trên đây, đương nhiên đưa tới việc phải cải tổ các cơ cấu, liên quan đến giáo xứ cách riêng, tức là cộng đoàn quy tụ quanh Bàn Tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
Giáo xứ có một lịch sử lâu dài, và ngay từ khởi đầu, đã đóng một vai trò nền tảng trong đời sống Kitô hữu, trong sự phát triển và hoạt động mục vụ của Hội Thánh. Chúng ta có thể thấy điều này trong các Thư của Thánh Phaolô. Nhiều bản văn của ngài cho chúng ta thấy việc thành lập các cộng đoàn nhỏ như những hội thánh tại gia, mà Thánh Tông đồ gọi đơn giản là “nhà” (x. Rm 16,3-5; 1Cr 16,19-20; Pl 4,22). Với những “nhà” này, chúng ta hình dung sự ra đời của những “giáo xứ” đầu tiên.
7. Từ lúc khai sinh, giáo xứ được hình dung như đáp ứng cho một nhu cầu mục vụ rõ rệt, cụ thể là đem Tin Mừng đến với dân chúng bằng việc thông truyền đức tin và cử hành các Bí tích. Nguyên nghĩa của từ “giáo xứ” cho thấy rõ ý nghĩa của cơ chế này: giáo xứ là một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà[10] và là lời giải đáp cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống và hoạt động giữa cộng đoàn. Vì thế, nét đặc trưng cụ thể của giáo xứ là một nơi thờ phượng, một dấu chỉ của việc Chúa Phục Sinh luôn hiện diện giữa Dân Người.
8. Tuy nhiên, cấu trúc hình thành theo địa giới của giáo xứ phải đối diện với một đặc điểm rất riêng của thế giới chúng ta ngày nay, trong đó, tính di động gia tăng và nền văn hóa kỹ thuật số mở rộng các ranh giới của đời sống. Một mặt, ngày nay người ta ít gắn bó hơn trong một khung cảnh địa lý rõ ràng và cố định, mà lại sống trong “một ngôi làng toàn cầu và đa nguyên”; đàng khác, không thể tránh khỏi nền văn hóa kỹ thuật số làm thay đổi khái niệm về không gian, cùng với ngôn ngữ và hành vi của con người, nhất là nơi thế hệ trẻ.
Hơn nữa, có thể dễ dàng giả định rằng công nghệ phát triển liên tục rốt cuộc sẽ làm cho tư duy của chúng ta thay đổi, cùng với nhận thức về bản thân và về đời sống xã hội. Sự thay đổi nhanh chóng, các mô hình văn hóa nối tiếp nhau, việc đi lại dễ dàng và tốc độ truyền thông đang làm thay đổi nhận thức về không gian và thời gian.
9. Là một cộng đoàn tín hữu sống động, giáo xứ tự thấy mình ở trong một bối cảnh mà sự ràng buộc về lãnh thổ rõ ràng càng ít đi, trong khi những điểm nối kết càng ngày càng gia tăng và những mối tương quan liên vị có nguy cơ tan biến vào một thế giới ảo không còn có một dấn thân hay trách nhiệm nào với người thân cận của mình nữa.
10. Điều đáng lưu ý là những thay đổi văn hóa đó và những mối quan hệ biến chuyển theo lãnh thổ, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đang thúc đẩy Hội Thánh phân định lại cách mới mẻ về cộng đoàn, “đó là nhìn thực tại bằng con mắt của Thiên Chúa, trong nhãn quan hiệp nhất và hiệp thông”[11]. Toàn thể Dân Thiên Chúa cần mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần để khởi đầu tiến trình “canh tân” bộ mặt Hội Thánh.
11. Nhờ sự phân định này, giáo xứ được mời gọi nhận ra các dấu chỉ của thời đại, khi đáp ứng nhu cầu của các tín hữu và những biến chuyển lịch sử. Cần phải có một sức sống mới giúp tái khám phá ơn gọi của những người đã được rửa tội là trở nên môn đệ của Đức Giêsu Kitô và là nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng, dưới ánh sáng của Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công đồng.
12. Các Nghị phụ Công đồng đã tiên liệu trước khi viết: “việc chăm sóc các linh hồn cần phải luôn thấm nhuần tinh thần truyền giáo”[12]. Tiếp nối giáo huấn này, Thánh Gioan Phaolô II chỉ rõ rằng: “Mặc dù giáo xứ phải được xây dựng hoàn hảo hơn và được hội nhập vào rất nhiều hình thức khác nhau, giáo xứ vẫn là một tổ chức thiết yếu quan trọng hàng đầu trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh”, nhờ đó “việc Loan báo Tin Mừng trở thành là trục trung tâm của mọi hoạt động mục vụ, đòi hỏi của việc Loan báo Tin Mừng là cơ bản, quan trọng nhất, và ưu tiên”[13]. Rồi đến Đức Bênêđictô XVI, ngài đã dạy rằng: “giáo xứ là ngọn hải đăng tỏa chiếu ánh sáng đức tin và như thế đáp ứng những khát vọng sâu xa và chân thực nhất của tâm hồn con người, đem lại ý nghĩa và hy vọng cho đời sống cá nhân và gia đình”[14]. Sau cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở “giáo xứ phải khích lệ và đào tạo để các thành viên trở nên người loan báo Tin Mừng”[15].
13. Để làm gia tăng hơn nữa tầm quan trọng trung tâm của sự hiện diện thừa sai của cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới[16], điều quan trọng không phải chỉ là suy tư về một kinh nghiệm mới của giáo xứ, nhưng còn là suy tư về thừa tác vụ và sứ vụ của linh mục, là người cùng với giáo dân, có nhiệm vụ trở thành “muối và ánh sáng trần gian” (x. Mt 5,13-14), một “ngọn đèn đặt trên đế” (Mc 4,21), soi tỏ khuôn mặt của một cộng đoàn Loan báo Tin Mừng, có khả năng đọc được các dấu chỉ của thời đại và làm chứng bằng lối sống thuyết phục theo Tin Mừng.
14. Bắt đầu bằng việc xem xét những dấu chỉ của thời đại, cần phải sản sinh ra những dấu chỉ mới trong khi lắng nghe Chúa Thánh Thần. Vì giáo xứ không còn là nơi tụ họp chính yếu và là trung tâm xã hội như thời xưa nữa, nên giáo xứ cần phải tìm ra những hình thức mới để đồng hành và gần gũi qua các sinh hoạt thường ngày. Không nên xem nhiệm vụ này như một gánh nặng, nhưng là một thách đố để nhiệt tâm theo đuổi.
15. Noi gương Thầy mình, các môn đệ của Chúa, trong trường học của các Thánh và của các mục tử, đã học biết, không phải không có khổ đau, chờ đợi thời giờ và đường lối của Thiên Chúa, nhờ đó xác tín rằng: Người vẫn luôn hiện diện cho đến tận thế, và Chúa Thánh Thần – trái tim đang đập trong đời sống Hội Thánh – sẽ quy tụ con cái Chúa đang tản mác khắp nơi trên thế giới. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu đừng sợ bắt đầu và tiến hành những chương trình tại những nơi có các nền văn hóa đa dạng, với hi vọng chắc chắn rằng: đối với các môn đệ của Đức Kitô, “không có gì thực sự của con người mà không âm vang trong trái tim họ”[17].
16. Trước thực tế đang thay đổi nói trên đây, mặc dù rất dấn thân quảng đại, mô hình giáo xứ hiện thời không còn đáp ứng được những kỳ vọng của các tín hữu nữa, nhất là khi người ta xét thấy sự đa dạng của các loại cộng đoàn hiện hữu hôm nay[18]. Quả thực, một đặc điểm của giáo xứ là việc bám rễ tại trung tâm nơi dân chúng sống ngày này qua ngày khác. Tuy nhiên, lãnh thổ giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là bối cảnh nơi đời sống con người được thể hiện qua các mối quan hệ, qua việc phục vụ lẫn nhau và qua truyền thống lâu đời. Chính trong “lãnh thổ hiện sinh” này, mà Hội Thánh đang phải đối diện với những thách đố đang diễn ra ngay trong lòng cộng đoàn. Vì thế, bất cứ hoạt động mục vụ nào mà chỉ giới hạn trong lãnh thổ của giáo xứ đều trở nên lỗi thời, đó là điều mà chính người giáo dân nhận thấy khi giáo xứ của họ có vẻ bảo thủ chỉ biết hoài cổ thay vì bạo dạn hướng về tương lai[19]. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, về phương diện giáo luật, nguyên tắc tòng thổ vẫn có hiệu lực, khi được quy định bởi pháp luật[20].
17. Hơn nữa, những hoạt động theo thói quen đều đặn không có tác động gì đến đời sống con người cụ thể sẽ chỉ là một cố gắng sống còn cằn cỗi, thường chỉ được mọi người thờ ơ đón nhận. Nếu giáo xứ không sống tinh thần năng động loan báo Tin Mừng, thì có nguy cơ giáo xứ tự quy chiếu vào chính mình và xơ cứng, cho những kinh nghiệm thiếu hương vị Tin Mừng và thiếu lòng nhiệt thành truyền giáo, chỉ biết đến những nhóm nhỏ mà thôi.
18. Canh tân công cuộc Loan báo Tin Mừng đòi hỏi một cách tiếp cận mới với những sáng kiến mục vụ đa dạng, làm sao cho Lời Chúa và đời sống bí tích có thể chạm tới từng người tùy theo bậc sống của họ. Ngày càng thấy rõ hơn rằng tư cách thành viên của Hội Thánh ngày nay không hệ tại ở nơi ta sinh ra và lớn lên, cho bằng là việc ta tham dự vào một cộng đoàn do được thừa nhận[21], nơi đó người tín hữu có một kinh nghiệm rộng mở hơn về Dân Thiên Chúa, cảm nhận thực sự mình thuộc về một thân thể gồm nhiều bộ phận kết hợp với nhau, mỗi người làm việc vì thiện ích chung (1Cr 12,12-27).
19. Ngoài nơi chốn và lí do làm ta trở nên thành phần của Hội Thánh, cộng đoàn giáo xứ còn là bối cảnh nhân loại, trong đó ta thực hiện công cuộc Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, nơi cử hành các Bí Tích và sống tình bác ái, với một lòng nhiệt thành truyền giáo; và đây là điều không những là một phần nội tại của hành động mục vụ mà còn là tiêu chuẩn đánh giá tính xác thực của Hội Thánh Chúa Kitô. Thời nay đặc biệt, có khi có nhiều người bị loại ra bên lề xã hội và cô đơn, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi trở nên dấu chỉ sống động của sự gần gũi của Chúa Kitô qua các mối dây liên kết huynh đệ, hằng quan tâm đến những hình thức nghèo khổ mới.
20. Từ những gì đã được nói đến trên đây, chúng ta cần phải xác định những viễn tượng giúp canh tân cơ cấu giáo xứ “truyền thống” theo định hướng truyền giáo. Đây là trọng tâm của việc hoán cải mục vụ hằng mong đợi, vốn cần phải đạt tới những việc như loan báo Lời Chúa, đời sống bí tích và việc làm chứng bác ái, nói khác đi, là những lãnh vực thiết yếu mà giáo xứ phát triển và thích nghi để phù hợp với Mầu nhiệm mà mình tin.
21. Đọc kỹ sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nhận thấy vai trò chính yếu của tác nhân Lời Thiên Chúa, là quyền năng biến đổi bên trong làm hoán cải các tâm hồn. Lời Chúa là lương thực dưỡng nuôi các môn đệ của Người và làm cho họ trở nên chứng nhân Tin Mừng trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống. Thánh Kinh hàm chứa một sức mạnh mang tính tiên tri khiến cho Lời Chúa luôn đầy sức sống. Cho nên giáo xứ cần phải hướng dẫn các tín hữu biết đọc và suy gẫm Lời Chúa qua nhiều phương thức khác nhau để rao truyền[22], truyền đạt rõ ràng và dễ hiểu để loan báo Chúa Giêsu bằng lời chứng luôn luôn mới mẻ của lời loan báo tiên khởi (kerygma)[23].
22. Cử hành mầu nhiệm Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô giáo”[24] và vì vậy, là nhân tố cơ bản làm nên cộng đoàn giáo xứ. Chính nơi đó, Hội Thánh ý thức ý nghĩa danh xưng của mình (Ecclesia), nghĩa là Dân Thiên Chúa được kêu gọi cùng quy tụ lại để ca tụng, khẩn cầu, xin ơn và tạ ơn. Khi cử hành Thánh Thể, cộng đoàn Kitô hữu đón mừng sự hiện diện sống động của Đức Chúa Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh, đón nhận lời loan báo toàn thể mầu nhiệm Cứu độ.
23.Qua đó, Hội Thánh thấy cần phải tái khám phá nghi thức khai tâm Kitô giáo, khai sinh ta trong đời sống mới, nghĩa là được tham dự vào mầu nhiệm sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là một hành trình tiếp diễn thường xuyên, không chỉ gắn kết với các cử hành hay biến cố, bởi vì hành trình này được xác định trước hết, không phải như là nghĩa vụ phải chu toàn một “nghi thức vượt qua”, nhưng đúng hơn, đây là việc không ngừng bước theo Chúa Kitô. Trong bối cảnh ấy, thật là hữu ích khi thiết lập một hành trình nhiệm huấn tác động thực sự đến đời sống[25]. Cả việc dạy Giáo lý cũng cần phải được trình bày như một sự công bố liên tục Mầu nhiệm Đức Kitô, nhằm nuôi dưỡng tâm hồn người tín hữu, làm cho tầm vóc Đức Kitô lớn lên mãi (x. Ep 4,13) qua việc gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa của sự sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ cần phải “lưu ý đến hai dạng thánh thiện giả hiệu có thể khiến chúng ta đi lạc đường: Ngộ đạo thuyết và thuyết Pêlagiô. Đây là hai lạc thuyết xuất hiện từ những thế kỷ đầu Kitô giáo, nhưng vẫn tiếp tục hoành hành nơi chúng ta ngày nay”[26]. Trong trường hợp thuyết Ngộ đạo, chúng ta gặp phải một thứ đức tin trừu tượng chỉ thuộc về trí khôn và những tri thức xa rời thực tại đời sống; trong khi đó, phái Pêlagiô dẫn người ta đến chỗ chỉ cậy dựa vào sức riêng của chính mình mà thôi, và bỏ qua hoạt động của Chúa Thánh Thần.
24. Trong sự tương tác mầu nhiệm giữa hành động của Thiên Chúa và con người, việc Loan báo Tin Mừng của các tín hữu hệ tại ở những gì họ tuyên xưng bằng chứng tá đời sống, qua các mối tương quan liên vị sinh ra niềm tin tưởng và hy vọng. Thời đại ngày nay vốn được ghi dấu bởi sự thờ ơ, cá nhân chủ nghĩa và không chấp nhận người khác, nên việc tái khám phá tình huynh đệ là rất quan trọng và cần thiết vì sứ vụ Loan báo Tin Mừng, gắn bó mật thiết với các mối quan hệ nhân linh[27]. Như thế, cộng đoàn Kitô hữu sống Lời Chúa Giêsu, Người thúc đẩy chúng ta “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới” (Lc 5,4), vâng lời Thầy và xác tín thả lưới chúng ta sẽ bắt được một “mẻ cá lớn”[28].
25. Nền “văn hóa gặp gỡ” lấy con người làm trung tâm nên thúc đẩy việc đối thoại, liên đới và cởi mở đón nhận người khác. Bởi thế, giáo xứ cần phải là “nơi chốn” đặc biệt cho sự gắn kết mọi người với nhau và nuôi dưỡng các mối tương quan cá nhân lâu bền, từ đó giúp người ta cảm nhận mình thuộc về và được yêu thương.
26. Cộng đoàn giáo xứ được thực sự mời gọi phát huy “nghệ thuật cảm thông”. Nếu bám rễ sâu, giáo xứ sẽ trở nên thực sự là một nơi giúp vượt qua sự cô đơn, vốn ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người, cũng như là “một thánh điện để những ai khát dọc đường đến mà uống, và là một trung tâm thừa sai thường xuyên phải đi Loan báo Tin Mừng”[29].
27. Chủ thể của việc truyền giáo và hoạt động Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh luôn là toàn thể Dân Thiên Chúa. Giáo Luật nhấn mạnh rằng: giáo xứ không phải là một tòa nhà hay tập hợp các công trình kiến trúc, mà là một cộng đoàn tín hữu nhất định, nơi đó Cha sở là chủ chăn thực sự[30]. Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một lãnh thổ nhất định, là nơi để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành”, và ngài khẳng định rằng giáo xứ là “một cộng đoàn của các cộng đoàn”[31].
28. Các thành phần khác nhau làm nên giáo xứ được mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Khi mỗi thành phần đều nhìn nhận vai trò bổ túc của mình trong việc phục vụ cộng đoàn, một mặt, người ta sẽ thấy được thừa tác vụ được thực hiện trọn vẹn qua sự cộng tác giữa cha sở và các linh mục phụ tá của ngài, đàng khác, người ta cũng nhận ra những đặc sủng khác nhau của các thầy phó tế, những người thánh hiến và giáo dân cùng cộng tác để xây dựng thân thể duy nhất của Chúa Kitô (x. 1Cr 12,12).
29. Giáo xứ là một cộng đoàn được Chúa Thánh Thần quy tụ để loan báo Lời Chúa và tái sinh những con cái mới của Chúa nơi giếng rửa tội. Được vị mục tử tập họp, giáo xứ cử hành lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa, làm chứng cho đức tin trong đức ái, sống tình trạng thừa sai thường xuyên, để không một ai bị loại trừ khỏi sứ điệp cứu độ ban sự sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả như sau: “Giáo xứ không phải là một cơ chế lỗi thời; chính vì giáo xứ có tính linh hoạt cao, có thể đảm nhận những hình thức rất khác biệt đòi hỏi một sự uyển chuyển và tinh thần sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc hẳn giáo xứ không phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nếu cho thấy mình có khả năng tự canh tân và không ngừng thích nghi, giáo xứ sẽ tiếp tục là chính “Hội Thánh đang sống giữa những căn nhà của con cái mình”. Điều này giả định là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và với đời sống của người dân, và không trở thành một tổ chức vô dụng xa cách quần chúng, hay là một nhóm người ưu tuyển khép kín […]. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng: lời kêu gọi các giáo xứ của chúng ta xét mình và canh tân vẫn chưa đủ sức để các giáo xứ đến gần người dân hơn, để giáo xứ trở thành môi trường sống hiệp thông và tham gia, và làm cho giáo xứ hoàn toàn hướng về việc truyền giáo”[32].
30. “Tính thiêng liêng và tính Giáo hội của các Đền Thánh” – vốn là những “tiền đồn truyền giáo” đích thực – không phải là không liên quan đến giáo xứ, vốn cũng có đặc điểm như các Đền Thánh bởi tinh thần hiếu khách, đời sống cầu nguyện và thinh lặng giúp canh tân tâm linh, việc cử hành Bí tích Hòa giải và chăm lo cho người nghèo khổ. Các cuộc hành hương của giáo xứ tới những Đền Thánh là những phương thế quý giá có thể giúp củng cố tình hiệp thông huynh đệ, và khi trở về giáo xứ, mọi người cởi mở và hiếu khách hơn[33].
31. Theo hướng đó, một Đền Thánh giống giáo xứ ở chỗ bao gồm mọi đặc điểm và công việc cần phải có trong cộng đoàn giáo xứ, đáp ứng khát khao tìm kiếm nội tâm của các tín hữu và là nơi họ có thể gặp được dung nhan lòng thương xót của Chúa Kitô trong một Hội Thánh lúc nào cũng niềm nở hiếu khách.
Năng viếng các Đền Thánh có thể giúp người tín hữu tái khám phá chính mình là người “đã được Chúa Thánh Thần xức dầu” (1Ga 2,20), nghĩa là họ được thánh hiến nhờ Bí tích Rửa tội. Ở những nơi như thế, người ta học biết cách cử hành sốt sắng sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa ở giữa Dân Người qua phụng vụ, qua vẻ đẹp của sứ mệnh Loan báo Tin Mừng của những người đã được thanh tẩy, và qua lời mời gọi thực thi đức ái trong đời sống hằng ngày[34].
32. Là một ‘thánh điện’ rộng mở cho mọi người, giáo xứ được mời gọi vươn ra đến với mọi người, không trừ ai, cần phải nhớ rằng người nghèo và người bị loại trừ phải luôn luôn chiếm vị trí ưu tiên trong lòng Hội Thánh. Như Đức Bênêđictô XVI khẳng định: “Tin Mừng phải được rao giảng đặc biệt cho người nghèo”[35]. Ngoài ra, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận định: “Công cuộc tân Phúc-âm-hóa là một lời mời gọi nhìn nhận quyền năng cứu độ đang hoạt động trong đời sống của người nghèo và đặt họ vào tâm điểm cuộc lữ hành của Hội Thánh. Chúng ta được mời gọi nhận ra Đức Kitô nơi họ, lên tiếng bênh vực quyền lợi của họ, nhưng cũng để trở thành bạn hữu của họ, lắng nghe họ, nói thay cho họ và đón nhận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta qua họ”[36].
33. Cộng đoàn giáo xứ thường là nơi gặp gỡ nhân bản và cá vị, đầu tiên của người nghèo, với khuôn mặt của Hội Thánh. Đặc biệt, các linh mục, phó tế và tu sĩ phải là những người trước hết biết chạnh lòng thương đến “thân xác đầy thương tích”[37] của anh chị em mình, thăm viếng những người đau yếu, nâng đỡ người thất nghiệp và gia đình họ, từ đó mở rộng cửa cho những ai khốn khó. Bằng việc quan tâm đến những người cùng khổ, cộng đoàn giáo xứ Phúc-âm-hóa và được Phúc-âm hóa bởi người nghèo, tái khám phá lời mời gọi rao giảng Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh[38], đồng thời nhắc ta nhớ “luật tối thượng” của đức ái mà theo đó chúng ta sẽ bị xét xử[39].
34. Trong tiến trình canh tân và tái cơ cấu, giáo xứ phải tránh nguy cơ rơi vào bệnh quan liêu quá hình thức trong tổ chức các sự kiện, cùng với các hoạt động không thể hiện tính năng động của việc Loan báo Tin Mừng, mà chỉ dựa trên tiêu chuẩn tự bảo tồn[40].
Trích dẫn lời Thánh Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn quen thẳng thắn nói: “Giáo hội phải đi sâu vào để nhận thức chính mình, suy gẫm về mầu nhiệm của mình [...]. Trong Giáo hội, có những cơ chế cản trở nỗ lực Loan báo Tin Mừng, cũng thế, những cơ chế tốt chỉ có ích khi có một sức sống liên lỉ khởi động, nâng đỡ và lượng định chúng. Nếu không có một sức sống mới và một tinh thần Phúc-âm thực sự, nếu Giáo hội không “trung thành với ơn gọi của chính mình”, thì mọi cơ chế mới nào chẳng bao lâu cũng sẽ bị biến chất”[41].
35. Việc cải tổ cơ cấu mà Hội Thánh thực hiện đòi hỏi phải thực sự thay đổi não trạng và đổi mới tâm hồn, nhất là những người được trao phó trọng trách lãnh đạo mục vụ. Để trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô, các mục tử và đặc biệt các cha xứ là những “cộng sự viên đặc biệt của Giám mục”[42], phải biết rõ nhu cầu cấp bách cải cách các hoạt động mục vụ theo hướng truyền giáo.
36. Vì cộng đoàn Kitô hữu có liên hệ thâm sâu với lịch sử của mình với những tình cảm thân thương, nên các mục tử không được quên rằng đức tin của Dân Chúa được dệt nên từ những kí ức của gia đình và cộng đoàn. Thông thường, một nơi chốn thiêng liêng nào đó hay gợi lên những khoảnh khắc đầy ý nghĩa trong cuộc sống của các thế hệ đã qua, những người và những sự kiện đã ghi khắc ấn tượng đậm đà trên hành trình cá nhân và gia đình chúng ta. Để tránh gây chấn động và tổn thương, điều quan trọng là cần phải thực hiện tiến trình tái cơ cấu các cộng đoàn của giáo xứ, hoặc có khi là của giáo phận, một cách linh hoạt và tiệm tiến.
Đề cập đến việc cải cách Giáo triều Rôma, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng sự tiệm tiến ấy “là thành quả của một sự phân định cần thiết, bao hàm tiến trình lịch sử, sự tiếp nối nhau của thời gian và các giai đoạn, đánh giá, chỉnh sửa , thử nghiệm và phê chuẩn “kinh nghiệm”. Trong những trường hợp này, vấn đề không phải là thiếu quyết đoán mà là cần phải linh hoạt để có thể đạt tới việc cải cách thực sự”[43]. Do đó, đừng “đốt giai đoạn” khi muốn thực hiện việc cải cách quá vội vàng dựa trên những tiêu chuẩn chung chung với kiểu lý luận “bàn giấy” mà quên đi những con người cụ thể đang sống trong lãnh thổ. Một cách cụ thể, mỗi dự án phải được suy nghĩ trong bối cảnh thực tế của đời sống cộng đoàn và phải gắn chặt với cộng đoàn mà không gây tổn thương; trước hết là giai đoạn tham khảo cần thiết, sau là đến giai đoạn thực hiện từng bước một, và cuối cùng là giai đoạn kiểm chứng.
37. Hẳn nhiên, việc tái cơ cấu này không chỉ thuộc trách nhiệm của cha sở, cũng không thể được áp đặt từ bên trên, mà không quan tâm đến Dân Chúa. Trong việc cải tổ mục vụ các cơ cấu ta phải ý thức rằng: “Dân thánh trung tín của Thiên Chúa được xức dầu với ơn sủng của Chúa Thánh Thần; do đó, khi xem xét, suy nghĩ, đánh giá, phân định, chúng ta phải hết sức chú ý đến sự xức dầu này. Mỗi khi, trong tư cách là Hội Thánh, là mục tử, là người tận hiến, mà chúng ta quên mất điều xác tín này thì chúng ta đã lầm đường lạc lối. Mỗi khi chúng ta muốn thay thế, bịt miệng, xóa hủy, làm lơ, hoặc thu hẹp toàn thể Dân Chúa vốn đa dạng vào một nhóm ưu tuyển, thì chúng ta đang xây dựng cộng đoàn, lên kế hoạch mục vụ, thiết lập những chương trình thần học, linh đạo và cơ cấu không có gốc rễ, không có lịch sử, không có nhân dạng, không ký ức, không hình hài, tắt một lời là vô hồn. Khi không đâm rễ vào đời sống của Dân Chúa, thì chúng ta mau chóng tiêu điều và làm biến chất bản tính của Hội Thánh”[44].
Theo nghĩa ấy, hàng giáo sĩ không chỉ biến đổi mình theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nhưng còn dấn thân vào việc hoán cải liên quan đến toàn thể Dân Chúa[45]. Do đó, cần phải “ý thức và sáng suốt tìm kiếm những không gian sống hiệp thông và tham dự để sự xức dầu của toàn Dân Thiên Chúa có được phương thế cụ thể để thể hiện”[46].
38. Do đó, cần phải vượt qua, không những quan niệm giáo xứ tự quy chiếu về mình mà còn quan niệm “giáo sĩ hóa việc mục vụ”. Phải nghiêm túc nhìn nhận rằng Dân Chúa “theo danh phận mình có phẩm giá và tự do của con cái Thiên Chúa, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong đền thờ”[47]. Điều này thúc đẩy phát triển những thực hành cũng như các mẫu gương mà qua đó mỗi người đã được rửa tội, nhờ ơn Chúa Thánh Thần và các đặc sủng đã lãnh nhận, thể hiện như một tác nhân tích cực của việc Phúc-Âm-hóa, theo phong cách và phương thức của một cộng đoàn có tổ chức, cùng với những cộng đoàn giáo xứ khác cũng như với việc mục vụ của toàn giáo phận. Thật vậy, chính toàn thể cộng đoàn là chủ thể chịu trách nhiệm về việc truyền giáo, vì Hội Thánh không chỉ là hàng giáo phẩm, mà là toàn thể Dân Thiên Chúa.
39. Các mục tử có nhiệm vụ duy trì sự năng động này, để mỗi người đã rửa tội ý thức rằng mình là tác nhân của việc Phúc-âm-hóa. Hàng linh mục được huấn luyện thường xuyên[48] phải khôn ngoan thực hành nghệ thuật phân định để giúp cho đời sống giáo xứ được phát triển và trưởng thành, khi tôn trọng các ơn gọi và thừa tác vụ khác nhau. Do đó, với tư cách là thành viên và là người phục vụ Dân Chúa đã được giao phó, linh mục không thể loại bỏ sự hợp tác của người giáo dân. Cộng đoàn giáo xứ có quyền đề nghị các hình thức thừa tác vụ, để loan báo đức tin và làm chứng cho đức ái.
40. Chúa Thánh Thần – là Quà tặng nhưng không của Chúa Cha và Chúa Con cho Hội Thánh – ở trung tâm của cộng đoàn khơi dậy nơi tín hữu lòng quảng đại dâng hiến “nhưng không” này, theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8). Chúa đã dạy các môn đệ sống tinh thần phục vụ quảng đại, mỗi người phải là món quà cho người khác (x. Ga 13, 14-15), đặc biệt quan tâm ưu tiên đến người nghèo. Từ đó, nhất thiết không được “thương mại hóa” đời sống bí tích, và cho người ta cảm tưởng rằng việc cử hành các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, và các việc phục vụ khác là những dịch vụ được định giá cả.
Người mục tử, khi quảng đại phục vụ đàn chiên, cũng phải dạy dỗ các tín hữu sao cho mỗi thành viên trong cộng đoàn cảm thấy mình có trách nhiệm và trực tiếp tham gia để đáp ứng các nhu cầu của Hội Thánh, bằng nhiều hình thức trợ giúp khác nhau trong tình liên đới, mà giáo xứ cần để chu toàn bổn phận mục vụ một cách tự do và hiệu quả.
41. Sứ mạng của giáo xứ, với tư cách như là trung tâm phát động chính của công cuộc Loan báo Tin Mừng, liên quan đến mọi thành phần khác nhau của Dân Thiên Chúa: linh mục, phó tế, những người thánh hiến và Kitô hữu giáo dân, mỗi người tùy theo đặc sủng và trách nhiệm của đấng bậc mình.
42. Hoán cải mục vụ của cộng đoàn giáo xứ theo hướng truyền giáo được hình thành và thể hiện trong một tiến trình cải tổ dần các cơ cấu; do đó, dẫn đến đổi mới cả những cách thức ủy thác khác nhau việc chăm sóc mục vụ, cũng như các hình thức tham gia khác nhau của mọi thành phần Dân Chúa.
43. Trong ngôn ngữ hiện hành, từ các văn kiện Huấn quyền liên quan đến việc phân chia lãnh thổ trong giáo phận[49], những diễn ngữ mới được thêm vào ngoài các từ giáo xứ và giáo hạt đã được Bộ Giáo Luật hiện hành nói đến[50], thì từ mấy thập niên qua đã có thêm những cụm từ khác như “đơn vị mục vụ” và “vùng mục vụ”. Những tên gọi này thật sự định nghĩa những hình thức tổ chức mục vụ mới trong giáo phận, diễn tả mối tương quan mới giữa các tín hữu và lãnh thổ.
44. Với việc sử dụng từ ngữ “đơn vị mục vụ” hay “vùng mục vụ”, hẳn nhiên không ai nghĩ rằng đưa ra giải pháp cho nhiều vấn đề thời nay, chỉ bằng việc đơn giản gán một tên gọi mới cho những thực tại đang hiện hữu. Trọng tâm của tiến trình đổi mới, không phải là thụ động chịu đựng sự thay đổi, mà là ra sức thúc đẩy và định hướng nó, và tìm ra những cơ cấu giúp mọi thành phần trong cộng đoàn Kitô hữu thực hiện ơn gọi chung Loan báo Tin Mừng, nhắm đến việc chăm sóc mục vụ hữu hiệu hơn cho Dân Chúa, mà “chìa khóa” cho việc đó là sự gần gũi.
45. Theo quan điểm đó, Giáo luật nhấn mạnh đến sự cần thiết xác định các vùng lãnh thổ rõ rệt[51] của mỗi giáo phận, những vùng này sau đó có thể được hợp lại thành những thực tại trung gian nằm giữa giáo phận và mỗi giáo xứ. Bởi thế, xét quy mô giáo phận lớn hay nhỏ và thực tế mục vụ cụ thể của nó mà ta có thể ấn định nhiều loại nhóm giáo xứ khác nhau[52].
Sự hiệp thông Hội Thánh được sống và hoạt động chính trong lòng những nhóm này, với việc lưu ý đặc biệt đến vùng lãnh thổ cụ thể. Vì vậy, khi thiết lập các nhóm như thế, cần phải đặc biệt xét đến tính thuần nhất của dân chúng trong vùng và các tập quán của họ, cũng như những nét đặc trưng chung trong khu vực, hầu tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ gần gũi giữa các cha xứ và các tác viên mục vụ khác[53].
46. Trước khi thành lập các cụm giáo xứ, đầu tiên Giám mục phải tham khảo ý kiến của Hội đồng linh mục[54], theo các quy định Giáo luật và nhân danh tinh thần đồng trách nhiệm thích đáng trong Giáo hội, chung cho Giám mục và các thành viên của Hội đồng này.
47. Trước hết, việc thành lập cụm các giáo xứ có thể được thực hiện dưới một hình thức liên kết đơn giản, nhờ đó, các giáo xứ liên kết vẫn giữ được bản sắc riêng của mình.
Theo quy tắc Giáo luật, việc thiết lập bất kì một nhóm nào giữa các giáo xứ gần nhau, dĩ nhiên phải tuân theo các yếu tố thiết yếu của luật phổ quát liên quan đến tư cách pháp nhân của giáo xứ, và Giám mục không được miễn chuẩn luật này[55]. Đối với giáo xứ nào mà Giám mục dự định giải thể, ngài phải ban hành một sắc lệnh cụ thể nêu rõ các lý do thích hợp[56].
48. Từ những gì được nêu ra trên đây, việc thành lập cụm giáo xứ, bao gồm việc thiết lập hoặc giải thể các giáo xứ, phải được Giám mục giáo phận thực hiện theo quy tắc đã được Bộ Giáo Luật tiên liệu, điều đó có nghĩa là thông qua việc sáp nhập, một giáo xứ được hoàn toàn nhập vào một giáo xứ khác, thì sẽ mất danh tính và tư cách pháp nhân vốn có của mình; hoặc thông qua việc hợp nhất thật sự, để trở nên một giáo xứ duy nhất hoàn toàn mới, với hậu quả là các giáo xứ đã có trước đó bị giải thể cùng với tư cách pháp nhân của chúng; hoặc, sau cùng, thông qua một việc phân chia từ một cộng đoàn giáo xứ thành những giáo xứ tự trị và hoàn toàn mới[57].
Ngoài ra, việc giải thể một giáo xứ khi sáp nhập là hợp pháp vì những lý do liên quan trực tiếp đến một giáo xứ nhất định. Có những lý do giải thể không đủ hiệu lực, chẳng hạn, tình trạng thiếu linh mục giáo phận, tình hình tài chính chung của giáo phận, hoặc các hoàn cảnh khác của cộng đoàn mà dự trù có thể thay đổi trong tương lai gần (ví dụ: số giáo dân quá lớn, tài chính thiếu hụt, quy hoạch đô thị trong khu vực). Một điều kiện để các điều khoản này được hợp pháp là các lý do có liên quan trực tiếp và hữu cơ đến cộng đoàn giáo xứ, chứ không phải là những xem xét chung chung, lý thuyết hoặc “nguyên tắc”.
49. Về việc thiết lập hay giải thể giáo xứ, cần nhớ rằng mọi quyết định phải được chuẩn nhận với một sắc lệnh chính thức bằng văn bản[58]. Do đó, phải được xem là trái với quy tắc Giáo luật khi chỉ ban hành một điều khoản chung chung nhằm tái tổ chức toàn giáo phận hoặc một phần giáo phận, hoặc một nhóm giáo xứ, qua chỉ một đạo luật hành chánh, sắc lệnh chung hay luật đặc thù.
50. Cách riêng, trong trường hợp giải thể một giáo xứ, sắc lệnh phải ghi rõ tình hình cụ thể và đâu là lý do khiến Giám mục quyết định như thế. Cho nên, các lý do chính đáng này phải được trình bày một cách cụ thể, nếu chỉ nói đơn giản là vì “lợi ích các linh hồn” thôi là không đủ.
Trong văn bản giải thể một giáo xứ, Giám mục cũng phải hướng dẫn việc chuyển nhượng tài sản theo quy định của Giáo luật[59]; trừ khi có những lý do nghiêm trọng thì phải nghe ý kiến của Hội đồng Linh mục[60], cần thiết phải liệu sao cho nhà thờ của giáo xứ vẫn mở cửa cho tín hữu.
51. Liên quan đến việc thành lập cụm và giải thể các giáo xứ, đôi khi cần phải chuyển đổi nhà thờ thành một nơi phàm tục tương hợp[61]. Giám mục giáo phận là người có thẩm quyền quyết định việc này, sau khi buộc phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Linh mục[62].
Thông thường, ngay cả trong trường hợp ấy, những lý do của sắc lệnh giải thể như tình trạng thiếu giáo sĩ, dân số sụt giảm hay khủng hoảng tài chánh của giáo phận là không hợp pháp. Trái lại, nếu một nhà thờ trong tình trạng
không thể sử dụng vào việc thờ phượng Thiên Chúa bằng bất cứ cách nào, và cũng không thể tu bổ được nữa, thì Giám mục mới có thể cho sử dụng nhà thờ đó vào một việc phàm tục tương hợp, chiếu theo quy tắc của luật.
52. Trước hết cần nhắc lại rằng, “để cổ võ việc chăm sóc mục vụ bằng một hoạt động chung, nhiều giáo xứ gần nhau có thể hợp thành những nhóm riêng, chẳng hạn như các giáo hạt”[63]; cũng có nhiều cách gọi khác nhau, chẳng hạn “giáo hạt”, “vùng mục vụ” hay “quận hạt”[64].
53. Cha quản hạt không nhất thiết phải là cha sở của một giáo xứ nhất định[65]. Hơn nữa, để đáp ứng mục đích mà cha quản hạt được bổ nhiệm, trách nhiệm chính của ngài là “cổ võ và phối hợp hoạt động mục vụ chung trong giáo hạt”[66], sao cho giáo hạt của mình không chỉ là một tổ chức thuần túy hình thức. Ngoài ra, cha quản hạt “buộc phải thăm viếng các giáo xứ trong hạt của mình theo sự chỉ đạo của Giám mục giáo phận”[67].Để có thể chu toàn phận vụ mình và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động chung giữa các giáo xứ, tùy hoàn cảnh cụ thể, Giám mục giáo phận có thể ban cho cha quản hạt những năng quyền khác mà ngài thấy là cần thiết.
54. Tương tự như thế, khi hoàn cảnh đòi hỏi, do việc mở rộng lãnh thổ giáo hạt hay do số tín hữu gia tăng, và cần để cho các giáo xứ gần nhau hợp tác dễ dàng hơn, sau khi đã tham khảo ý kiến Hội đồng Linh mục[68], Giám mục cũng có thể ban hành sắc lệnh kết hợp thành một cụm các giáo xứ khác nhau trong cùng giáo hạt[69], lưu ý đến một số tiêu chuẩn cụ thể.
55. Trước hết, điều đáng lưu ý là việc thành lập cụm giáo xứ (gọi là “đơn vị mục vụ”)[70] này nên dựa trên tính thuần nhất nhiều nhất có thể, xét cả về mặt xã hội học, sao cho hoạt động mục vụ được thực hiện một cách thống nhất hay nhất quán[71],hướng đến việc truyền giáo.
56. Ngoài ra, mỗi giáo xứ trong cụm phải được ủy nhiệm cho một cha sở hoặc một nhóm linh mục liên đới (in solidum) với nhau cùng chăm sóc tất cả các cộng đoàn giáo xứ[72]. Mặt khác, nếu thấy thích hợp, Giám mục cũng có thể thành lập cụm gồm nhiều giáo xứ do cùng một cha sở cai quản[73].
57. Dù sao đi nữa, cần quan tâm đến các linh mục đã thi hành thừa tác vụ của mình một cách tốt đẹp và được cộng đoàn quý mến; và cũng phải xét đến lợi ích của các tín hữu vốn luôn gắn bó với các mục tử của họ bằng lòng yêu mến và tri ân. Vì thế, khi thành lập một cụm giáo xứ đặc biệt nào đó, Giám mục giáo phận không được ra quyết định trong cùng một sắc lệnh, rằng vì nhiều giáo xứ đang được trao phó cho một cha sở duy nhất[74], nên các cha sở khác được giả thiết đang hiện diện và đương nhiệm tại giáo xứ[75] phải về làm việc tại văn phòng giáo xứ của cha sở duy nhất ấy, hoặc bị tước mất chức vụ của mình.
58. Trong những trường hợp này, trừ khi liên quan đến việc bổ nhiệm theo cách liên đới (in solidum), Giám mục giáo phận, trong từng trường hợp cụ thể, có trách nhiệm phải xác định phận vụ và quyền hạn của vị linh mục điều hành cụm giáo xứ được sáp nhập, cũng như xác định việc hợp tác của ngài với cha quản hạt[76] mà đơn vị mục vụ được thiết lập trong giáo hạt ấy.
59. Một khi cụm giáo xứ này đã được thành lập theo Giáo luật – như là một giáo hạt hay một “đơn vị mục vụ” – thì tùy theo hoàn cảnh cụ thể, Giám mục sẽ quyết định mỗi giáo xứ phải có Hội đồng Mục vụ Giáo xứ riêng[77], hay chỉ có một Hội đồng Mục vụ duy nhất cho tất cả các giáo xứ trong cụm. Dù trong bất cứ trường hợp nào, mỗi giáo xứ trong cụm vẫn còn tư cách và quyền lực pháp nhân, nên phải duy trì Hội đồng Kinh tế của mình[78].
60. Nhằm ưu tiên cho việc Loan báo Tin Mừng và việc chăm sóc mục vụ được hiệu quả hơn, nên tổ chức cho các giáo xứ thuộc cụm những hoạt động mục vụ chung trong một số lãnh vực nhất định (chẳng hạn việc dạy giáo lý, việc bác ái, mục vụ giới trẻ hoặc mục vụ gia đình) với sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa: giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân.
61. Nếu nhiều “đơn vị mục vụ” có thể tạo thành một giáo hạt, thì tương tự như thế, nhất là trong các giáo phận mà lãnh thổ rất rộng lớn, Giám mục, sau khi đã tham khảo Hội đồng Linh mục[79], có thể gom nhiều giáo hạt thành “quận hạt” hoặc “khu vực mục vụ”[80]. Vị Đại diện Giám mục[81], nhân danh Giám mục, dưới thẩm quyền và hiệp thông với ngài, có quyền hành pháp thông thường, cùng những năng quyền đặc biệt khác mà Giám mục muốn ủy thác, sẽ điều hành các hoạt động mục vụ trong khu vực.
62. Trước hết, cha sở và các linh mục khác, trong sự hiệp thông với Giám mục, là điểm quy chiếu căn bản cho cộng đoàn giáo xứ, vì sứ vụ mục tử của họ[82]. Cha sở và các linh mục khác, đang khi nuôi dưỡng đời sống chung và tình huynh đệ linh mục, cử hành đời sống bí tích cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn, và được mời gọi tổ chức làm sao để giáo xứ trở nên dấu chỉ thực sự của sự hiệp thông[83].
63. Liên hệ tới sự hiện diện và sứ vụ của linh mục tại cộng đoàn giáo xứ, nên có một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống chung[84]; Giáo luật (Điều 280) đã đề cập đến khuyến nghị này, ngay cả khi việc sống chung không phải là một đòi buộc đối với các linh mục triều. Về mặt này, cần nhắc lại giá trị nền tảng của tinh thần hiệp thông, việc cầu nguyện và hoạt động mục vụ chung của các giáo sĩ[85], nhằm sống một chứng tá hữu hiệu của tình huynh đệ bí tích[86] và một hành động Loan báo Tin Mừng hiệu quả hơn.
64. Khi trải nghiệm đời sống cộng đoàn, căn tính linh mục được củng cố, người linh mục bớt lo lắng đến đời sống vật chất hơn, và cám dỗ của chủ nghĩa cá nhân nhường chỗ cho các tương quan cá vị sâu sắc. Việc cầu nguyện chung, cùng nhau suy tư và học hỏi, vốn không bao giờ được thiếu vắng trong đời sống linh mục, có thể giúp rất nhiều cho việc huấn luyện một linh đạo linh mục nhập thể trong đời sống hằng ngày.
Dù sao đi nữa, theo sự cân nhắc kỹ lưỡng và trong giới hạn cho phép, Giám mục nên lưu tâm tạo sự hòa hợp nhân bản và thiêng liêng giữa các linh mục mà ngài dự tính trao phó cho họ coi sóc một hay nhiều giáo xứ, qua việc mời gọi họ sẵn sàng quảng đại cho sứ vụ mới bằng việc chia sẻ đời sống huynh đệ chung với anh em đồng sự[87].
65. Trong một số trường hợp, nhất là ở đâu không có truyền thống hay thông lệ lập nhà xứ, hoặc vì lý do nào khác, lại thiếu nơi ở cho linh mục, thì ngài có thể về sống tại gia đình mình, nơi đầu tiên hình thành nhân cách và khám phá ơn gọi[88].
Việc sắp xếp như thế, một mặt có thể có tác dụng tích cực đến đời sống thường nhật của vị linh mục, vì bảo đảm được một bầu khí thanh bình và ổn định, nhất là khi cha mẹ ngài còn sống. Mặt khác, linh mục cần phải tránh, không để mình bị lệ thuộc vào các quan hệ trong gia đình, để toàn tâm toàn ý lo cho sứ vụ, không phương hại đến mối tương quan, thay vì bổ túc, giữa gia đình linh mục và cộng đoàn tín hữu.
66. Giáo vụ cha sở bao hàm toàn bộ việc coi sóc các linh hồn[89]. Vì thế, để được bổ nhiệm thành sự làm cha sở, người tín hữu phải có thánh chức linh mục[90]; do đó không được trao ban giáo vụ ấy cho người không có chức thánh ấy hay không có những năng quyền liên hệ, ngay cả trong trường hợp thiếu linh mục.
Chính vì mối tương quan giữa cha sở và cộng đoàn giáo xứ phải có sự hiểu biết và gần gũi, nên giáo vụ cha sở không thể được giao cho một pháp nhân[91]. Cách riêng, ngoài những gì được dự liệu trong Giáo luật điều 517, thì giáo vụ cha sở không được ủy thác cho một nhóm người gồm giáo sĩ và giáo dân. Vì thế, phải tránh những tên gọi như: “nhóm lãnh đạo”, “ban lãnh đạo” hoặc những cách gọi tương tự, gợi lên một quyền hành tập đoàn trong giáo xứ.
67. Vì cha sở là “chủ chăn riêng của giáo xứ được trao phó cho ngài”[92], nên do chính luật (ipso iure) ngài là đại diện giáo xứ trong mọi công việc có tính cách pháp lý[93]. Cha sở là người chịu trách nhiệm quản trị tài sản của giáo xứ, cũng là “tài sản của Hội thánh”, nên phải tuân theo các chỉ dẫn của Giáo luật[94].
68. Công đồng Chung Vaticanô II đã khẳng định rằng: “Trong giáo xứ của mình, vì lợi ích các linh hồn đòi hỏi, cha sở được hưởng quyền ổn định tại chức”[95]. Do đó, theo nguyên tắc chung, cha sở phải được “bổ nhiệm vô thời hạn”[96]. Tuy nhiên, Giám mục giáo phận có thể bổ nhiệm cha sở cho một thời gian hữu hạn, nếu Hội đồng Giám mục đã quy định trong một sắc lệnh. Vì cha sở cần thiết lập mối tương quan thực sự hữu hiệu với cộng đoàn được ủy thác cho mình, nên Hội đồng Giám mục không nên quy định một thời gian quá ngắn dưới 5 năm, cho một lần bổ nhiệm.
69. Dù sao đi nữa, ngay cả khi được bổ nhiệm “vô thời hạn” hay trong “một thời gian hữu hạn”, vị linh mục phải sẵn sàng đi đến một giáo xứ khác hay lãnh nhận một trách vụ khác, “vì thiện ích của các linh hồn hay những nhu cầu hoặc lợi ích của Hội Thánh đòi hỏi”[97]. Cần phải nhớ rằng cha sở phục vụ giáo xứ chứ không phải giáo xứ phục vụ cha sở.
70. Thông thường, nếu có thể, cha sở lo chăm sóc mục vụ cho một giáo xứ là tốt nhất, “tuy nhiên, vì tình trạng thiếu linh mục hoặc vì những hoàn cảnh khác, có thể ủy thác việc coi sóc nhiều giáo xứ gần nhau cho cùng một cha sở”[98]. “Những hoàn cảnh khác” được giải thích, chẳng hạn, như lãnh thổ nhỏ bé hay số dân cư ít ỏi, cũng như các giáo xứ lân cận tiếp giáp nhau. Giám mục giáo phận cần cân nhắc cẩn thận liệu cha sở được ủy thác coi sóc nhiều giáo xứ, có thể chu toàn, như mục tử thực sự, giáo vụ cha sở của tất cả và từng giáo xứ một cách đầy đủ và cụ thể hay không[99].
71. Sau khi được bổ nhiệm, cha sở phải chu toàn các bổn phận đã được trao phó, với mọi quyền lợi và trách nhiệm, cho đến khi chấm dứt một cách hợp pháp nhiệm vụ mục tử của mình[100]. Đối với việc giải nhiệm hay thuyên chuyển trước thời hạn, phải tuân theo những thủ tục Giáo luật có liên quan mà Hội Thánh đã sử dụng để nhận biết điều phù hợp trong trường hợp cụ thể[101].
72. Vì lợi ích của các tín hữu, ngay cả khi không có lí do nào khác để chấm dứt giáo vụ, cha sở sẵn sàng đón nhận yêu cầu của Giám mục giáo phận mà rời bỏ giáo xứ khi đã được 75 tuổi trọn[102]. Việc đệ đơn từ nhiệm sau khi trọn 75 tuổi[103] phải được coi như một bổn phận đạo đức, nếu không theo Giáo luật, cho dù điều đó không có nghĩa là cha sở được chấm dứt ngay giáo vụ của mình. Việc từ nhiệm chỉ có hiệu lực khi Giám mục giáo phận thông báo cho cha sở bằng văn bản chấp thuận việc từ nhiệm ấy[104]. Mặt khác, Giám mục cần nhân từ xem xét đơn từ nhiệm của một cha sở, nếu chỉ vì ngài đã 75 tuổi trọn.
73. Dù sao đi nữa, để tránh một quan niệm thực dụng về sứ vụ, trước khi chấp thuận việc từ nhiệm, Giám mục giáo phận sẽ cân nhắc cẩn thận tất cả các tình huống liên quan đến cha sở và giáo xứ, chẳng hạn vì lý do sức khỏe hay vì kỉ luật, tình hình thiếu hụt linh mục, vì thiện ích của cộng đoàn giáo xứ và những điều khác tương tự, rồi mới chấp thuận việc từ nhiệm dựa trên một lý do chính đáng và cân xứng[105].
74. Một cách khác, nếu điều kiện nhân thân cho phép và nếu còn khả năng làm việc mục vụ, thì Giám mục có thể xét giữ ngài tiếp tục giáo vụ cha sở, nhưng có thể trợ giúp bởi một linh mục chuẩn bị cho sự kế nhiệm về sau, nếu có. Ngoài ra, “tùy trường hợp, Giám mục có thể giao cho cha sở về hưu đảm trách một giáo xứ nhỏ hơn, ít trách nhiệm hơn”[106], hoặc giao phó một công việc mục vụ khác phù hợp với tình trạng cụ thể của ngài, giúp ngài, nếu cần, hiểu dù sao cũng không nên cảm thấy mình bị “hạ bệ” hay “trừng phạt” vì việc thuyên chuyển ấy.
75. Khi chưa thể bổ nhiệm ngay cha sở mới, Giám mục cần phải chỉ định một vị quản nhiệm giáo xứ[107] theo những chỉ dẫn của Giáo luật[108].
Quả thật, về bản chất, đây là một chức vụ tạm thời và được thực hiện trong thời gian chờ bổ nhiệm cha sở mới. Vì lý do này, việc Giám mục giáo phận bổ nhiệm một quản nhiệm giáo xứ trong thời hạn dài, quá một năm, hoặc lâu dài, nhằm tránh việc bổ nhiệm một cha sở, là bất hợp pháp.
Kinh nghiệm cho thấy, giải pháp này thường được dùng nhằm tránh các yêu cầu của luật liên quan đến nguyên tắc về tính bền vững tại chức của cha sở, nên đó là một sự vi phạm, vừa phương hại đến sứ vụ linh mục, vừa tác hại đến chính đời sống cộng đoàn. Bởi lẽ trong tình trạng không hiện diện chắc chắn của vị mục tử như thế, giáo xứ không thể lên kế hoạch Loan báo Tin Mừng xa rộng, mà chỉ giới hạn vào một mục vụ bảo tồn thôi.
76. Thêm một khả năng khác nữa là “ở đâu hoàn cảnh đòi hỏi, trách nhiệm mục vụ của một giáo xứ hoặc của nhiều giáo xứ cùng một lúc có thể được ủy thác cách liên đới (“in solidum”) cho nhiều tư tế”[109]. Như thế, tùy từng hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi, Giám mục có thể áp dụng cách thận trọng giải pháp này, đặc biệt vì lợi ích của cộng đoàn giáo xứ đương xét nhờ hoạt động mục vụ chung và hiệu quả hơn, và còn để thúc đẩy sống linh đạo hiệp thông giữa các linh mục[110].
Trong trường hợp ấy, trong tình hiệp thông với các thành viên khác trong cộng đoàn giáo xứ, nhóm các linh mục cùng quyết định hành động, dưới sự chỉ đạo của vị điều hành – người đứng đầu trong nhóm tư tế (primus inter pares), mà tất cả đều là cha sở thực sự.
77. Chúng tôi đặc biệt khuyến nghị rằng mỗi cộng đoàn linh mục, được trao phó một hay nhiều giáo xứ để chăm sóc mục vụ cách liên đới, cần soạn thảo một nội quy, để mỗi người có thể chu toàn tốt nhất công việc và nhiệm vụ của mình[111].
Vị Điều hành có trách nhiệm điều phối công việc chung của giáo xứ hay các giáo xứ đã được giao phó cho nhóm. Hơn nữa, đảm nhận tư cách đại diện pháp lý[112], ngài phải điều phối việc thực thi năng quyền chứng hôn, cũng như quyền miễn chuẩn luật dành cho cha sở[113], và phải giải trình mọi hoạt động của nhóm cho đức Giám mục[114].
78. Ngoài các giải pháp đã nêu trên, linh mục có thể được bổ nhiệm làm phó xứ và đảm trách một trong các lãnh vực mục vụ (giới trẻ, giới cao niên, người bệnh tật, các đoàn thể, hiệp hội bác ái, đào tạo, giáo lý, vv.) tại các giáo xứ khác nhau, hay để chu toàn thừa tác vụ, cho toàn thể giáo xứ hoặc cho một phần nhất định của giáo xứ[115].
Trường hợp một linh mục làm phó xứ cho nhiều giáo xứ có các cha sở khác nhau làm chánh xứ thì trong sắc lệnh bổ nhiệm phải ghi rõ nhiệm vụ liên quan đến từng giáo xứ, cũng như những việc liên quan đến cha xứ như nơi ăn chốn ở và việc cử hành Thánh lễ.
79. Phó tế là các thừa tác viên có chức thánh được nhập tịch vào một giáo phận hay vào các thực thể Hội thánh có năng quyền đó[116]. Nhờ bí tích đã lãnh nhận, các phó tế là cộng sự viên của Giám mục và hàng linh mục trong sứ mạng Loan báo Tin Mừng duy nhất, với sứ vụ chuyên biệt là “phục vụ Dân Thiên Chúa trong các thừa tác vụ phụng vụ, lời Chúa và bác ái”[117].
80. Để bảo vệ căn tính phó tế và đề cao thừa tác vụ của họ, Đức Giáo hoàng Phanxicô trước hết cảnh báo một vài nguy cơ liên quan đến việc hiểu bản chất của chức phó tế: “Phải cẩn thận đừng xem phó tế như là người mà một nửa là linh mục, một nửa là giáo dân. […] Xem hình ảnh phó tế như một kiểu trung gian giữa người tín hữu và người mục tử cũng không hay. Phó tế không phải là người đứng giữa nẻo đường linh mục và giáo dân, giữa nẻo đường mục tử và tín hữu. Có hai cám dỗ: nguy cơ giáo sĩ trị khi đề cao phó tế và cám dỗ thực dụng khi coi phó tế chỉ là người phụ giúp linh mục việc này việc khác”[118].
Cũng trong bài diễn văn này, Đức Thánh Cha đã xác định rõ rệt vai trò cụ thể của chức phó tế trong Hội Thánh: “Phó tế là một ơn gọi đặc thù, một ơn gọi kêu mời phục vụ thân tình […]. Từ ngữ này là chìa khóa để hiểu đặc sủng của các con. Phục vụ như một trong những đặc sủng của Dân Thiên Chúa. Có thể nói, phó tế là người giám hộ việc phục vụ trong Hội Thánh. Mỗi từ ngữ cần được diễn tả cân xứng. Các con là người giám hộ việc phục vụ trong Hội Thánh: phục vụ Lời Chúa, phục vụ Bàn Thờ, phục vụ Người Nghèo”[119].
81. Giáo huấn về chức phó tế đã tiến triển đáng kể qua nhiều thế kỷ. Công đồng Vaticanô II cũng tiếp tục làm sáng tỏ giáo huấn này và mở rộng lãnh vực hoạt động thừa tác vụ chứ không giới hạn chức phó tế trong lãnh vực phục vụ bác ái hoặc - như Công đồng Trentô xác định - chỉ như là giai đoạn chuyển tiếp và hầu như chỉ dành riêng cho việc phục vụ trong Phụng vụ. Công đồng Vaticanô II xác định rằng phó tế là một phẩm trật của chức Thánh, và do đó “được củng cố nhờ ân sủng bí tích, hiệp thông với Giám mục và linh mục đoàn của mình, các phó tế phục vụ Dân Thiên Chúa bằng các công tác trong phụng vụ, rao giảng và bác ái”[120].
Giáo lý hậu Công đồng lấy lại những gì đã được Hiến chế Lumen gentium xác định và định nghĩa rõ hơn giáo vụ của phó tế là thông dự vào bí tích Truyền chức Thánh, dù ở một mức độ khác. Trong buổi tiếp kiến các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về chức phó tế, Đức Phaolô VI đã tái xác định rằng chức phó tế phục vụ cộng đoàn Kitô hữu “cả trong việc rao giảng Lời Chúa lẫn trong thừa tác vụ bí tích và trong hoạt động bác ái”[121]. Mặt khác, sách Công vụ Tông đồ (Cv 6,1-6) dường như nói đến bảy người được chọn chỉ nhằm mục đích phục vụ bàn ăn, nhưng trên thực tế, cũng Sách Thánh ấy kể lại hai phó tế Stêphanô và Philipphê đã thi hành việc “phục vụ Lời” cách chính danh. Vì vậy, như là cộng tác viên của nhóm Mười Hai và của Phaolô, họ thực thi thừa tác vụ của mình trong hai lãnh vực: Loan báo Tin Mừng và bác ái.
Do đó, nhiều nhiệm vụ của Hội Thánh được trao phó cho phó tế, nghĩa là tất cả những việc gì không hàm chứa toàn bộ việc coi sóc các linh hồn[122]. Tuy nhiên, trong khi Bộ Giáo luật minh định những bổn phận dành riêng cho linh mục và những bổn phận có thể trao cho người tín hữu giáo dân, nhưng lại không đề cập gì đến bổn phận cụ thể của thừa tác vụ phó tế diễn tả tính đặc thù của chức ấy.
82. Dù sao đi nữa, lịch sử nhắc ta nhớ rằng chức phó tế đã được thiết lập trong phạm vi tầm nhìn thừa tác của Hội Thánh, và do đó, như là một thừa tác vụ thánh nhằm phục vụ Lời và bác ái; việc phục vụ bác ái cũng bao gồm cả việc quản trị tài sản. Cả hai nhiệm vụ này của phó tế được diễn tả trong bối cảnh phụng vụ, trong đó vị phó tế được mời gọi công bố Tin Mừng và phục vụ bàn Thánh. Các quy chiếu này giúp xác định những nhiệm vụ đặc thù của phó tế, làm nổi bật các khía cạnh riêng của ơn gọi nhằm thăng tiến thừa tác vụ phó tế.
83. Trong cộng đoàn giáo xứ thường có sự hiện diện của những người sống đời thánh hiến. “Đây không phải là một thực tại nằm bên ngoài hay độc lập với đời sống Hội Thánh địa phương, nhưng hiện diện cách đặc biệt giữa lòng Hội Thánh, mang dấu ấn sống triệt để theo Tin Mừng, với những đặc sủng riêng của mình[123]. Ngoài ra, người sống đời thánh hiến, cùng với các giáo sĩ và giáo dân, hòa nhập vào cộng đoàn “diễn tả chiều kích đặc sủng của Hội Thánh. […] Linh đạo của các Tu hội sống đời thánh hiến có thể trở nên một nguồn suối quan trọng giúp tín hữu giáo dân và linh mục sống ơn gọi của mình[124].
84. Những người sống đời thánh hiến có thể góp phần vào sứ mạng truyền giáo của cộng đoàn giáo xứ trước hết chính từ sự “hiện hữu” của họ, nghĩa là từ chứng từ bước theo sát Đức Kitô qua sự tuyên khấn các lời khuyên Phúc- âm[125]. Và thứ đến, mới từ “việc làm” của họ, nghĩa là các công việc được thực hiện theo đặc sủng của mỗi Tu hội (chẳng hạn dạy giáo lý, việc bác ái, giáo dục đào tạo, mục vụ giới trẻ, chăm sóc bệnh nhân)[126].
85. Cộng đoàn giáo xứ hình thành đặc biệt từ các tín hữu giáo dân[127]; nhờ bí tích Rửa tội, các bí tích Khai tâm Kitô giáo và cả bí tích Hôn phối đối với nhiều người[128] họ tham gia vào các hoạt động truyền giáo của Hội thánh, vì “ơn gọi và sứ vụ riêng biệt của người tín hữu giáo dân là nỗ lực biến đổi các thực tại trần thế, để sao cho mọi hoạt động nhân loại được Phúc-âm-hóa”[129].
Cách đặc biệt, người giáo dân, với tính cách trần thế riêng biệt và đặc thù, nghĩa là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các thực tại trần thế và xếp đặt chúng theo ý định Thiên Chúa”[130], “họ cũng có thể cảm thấy được mời gọi hay thực sự được mời gọi cộng tác với các mục tử của họ để phục vụ cộng đoàn Hội Thánh, vì sự phát triển và đời sống của cộng đoàn, qua việc thực hiện những thừa tác vụ khác nhau tùy theo ơn riêng hay đặc sủng Chúa ban cho họ”[131].
86. Người giáo dân ngày nay được mời gọi quảng đại dấn thân phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng, trước hết bằng việc làm chứng tá cách chung trong đời sống thường nhật phù hợp với Tin Mừng, trong mọi môi trường họ sống và trên mọi cấp độ trách nhiệm khác nhau; và sau đó cách đặc biệt, họ dấn thân phục vụ cộng đoàn giáo xứ[132].
87. Một hình thức chăm sóc mục vụ cộng đoàn khác mà Giám mục có thể áp dụng được nêu lên trong Giáo luật điều 517 §2, trong trường hợp thiếu linh mục, khi chưa thể bổ nhiệm cha sở hay quản nhiệm giáo xứ toàn thời gian. Trong bối cảnh khó khăn mục vụ ấy, để nâng đỡ đời sống Kitô hữu và tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của cộng đoàn, Giám mục giáo phận có thể ủy thác việc chăm sóc mục vụ giáo xứ cho một phó tế, một tu sĩ hay một giáo dân, hoặc cho một nhóm người (chẳng hạn, cho một Tu hội dòng hay một Tu đoàn)[133].
88. Những người được ủy thác tham gia vào việc chăm sóc mục vụ cộng đoàn dưới quyền điều phối và hướng dẫn của một linh mục với quyền hạn hợp pháp làm người “Điều hành chăm sóc mục vụ”. Ngài có đầy đủ năng quyền và những chức trách của một cha sở, cho dù ngài không đảm nhận một giáo vụ, với các quyền và bổn phận kèm theo.
Cần nhớ rằng đây là một hình thức ủy thác ngoại thường việc chăm sóc mục vụ, vì chưa thể bổ nhiệm cha sở hay cha quản nhiệm, không nên lẫn lộn với việc hợp tác tích cực thông thường và đảm nhận trách nhiệm của mọi tín hữu giáo dân.
89. Khi áp dụng phương thức cứu chữa đặc biệt này, cần chuẩn bị Dân Chúa cách thích đáng cho họ hiểu rằng giải pháp đó cần thiết chỉ tạm thời chứ không kéo dài vô hạn[134]. Để hiểu và áp dụng đúng khoản luật này cần phải nhắc lại rằng khi áp dụng khoản dự liệu đó phải “tôn trọng các điều khoản trong đó thật khít khao, cụ thể là: a) vì lý do thiếu linh mục chứ không phải để thuận tiện hay “đề cao giáo dân” […]; b) “tham gia vào việc chăm sóc mục vụ” được hiểu là không chỉ đạo, điều phối, hướng dẫn, điều khiển giáo xứ mà theo chỉ dẫn Giáo luật chỉ thuộc về một linh mục”[135].
90. Để sự ủy nhiệm việc chăm sóc mục vụ trong Giáo luật điều 517 §2 được hữu hiệu[136], cần tuân theo một vài tiêu chuẩn. Trước hết, đây là một giải pháp mục vụ ngoại thường và mang tính tạm thời[137], lý do duy nhất làm cho sự ủy nhiệm này hợp pháp là vì tình trạng thiếu hụt linh mục, khiến không thể bổ nhiệm một cha sở hay cha quản nhiệm để chăm sóc mục vụ cộng đoàn giáo xứ. Ngoài ra, với phương thức ủy thác này, nên ưu tiên chọn trước hết một hay nhiều phó tế quản trị việc chăm sóc mục vụ hơn tu sĩ hay người giáo dân[138].
91. Dù sao đi nữa, việc điều phối hoạt động mục vụ thuộc thẩm quyền của vị linh mục đã được Giám mục giáo phận chỉ định như là người Điều hành; chỉ ngài có đầy đủ các quyền hạn và năng quyền của một cha sở, còn các tín hữu khác chỉ “tham gia vào việc chăm sóc mục vụ giáo xứ”[139].
92. Cả phó tế và những người không có chức thánh tham gia vào việc chăm sóc mục vụ chỉ có thể chu toàn những trách vụ tương hợp với bậc phó tế hay giáo dân của họ, trong khi tôn trọng “những đặc tính nguyên thủy khác nhau và bổ sung cho nhau của đặc sủng và chức trách của thừa tác viên có chức thánh và của người tín hữu giáo dân, điều mà Thiên Chúa đã muốn xếp đặt như thế trong Hội Thánh”[140].
93. Sau cùng, trong thư bổ nhiệm vị linh mục Điều hành, Giám mục cần xác định, ít nhất một cách vắn tắt, những lý do khẩn thiết để áp dụng hình thức ủy nhiệm việc chăm sóc mục vụ ngoại thường này tại một hay nhiều giáo xứ, cùng với các hình thức thi hành thừa tác vụ cho vị linh mục có chức trách phải làm.
94. Ngoài việc cộng tác không thường xuyên mà mọi người thiện chí – kể cả người chưa được rửa tội – có thể đóng góp trong các hoạt động hằng ngày của giáo xứ, còn có những trách vụ thường trực, trên cơ sở đó các tín hữu nhận lãnh trách nhiệm phục vụ trong cộng đoàn giáo xứ trong một thời gian nhất định. Người ta có thể nghĩ đến, chẳng hạn, việc làm giáo lý viên, phục vụ bàn thờ, nhà giáo dục làm việc trong các đoàn thể và hiệp hội, làm công tác bác ái hay tự nguyện phục vụ trong các loại trung tâm tư vấn hoặc lắng nghe, và người đi thăm viếng các bệnh nhân.
95. Dù sao đi nữa, khi chỉ định trách vụ cho các phó tế, các tu sĩ và tín hữu giáo dân nhận tham gia thi hành việc chăm sóc mục vụ, cần phải dùng các chức danh cho xứng hợp với các chức trách mà họ có thể đảm nhận theo bậc sống của họ. Có như thế, sự khác biệt cốt yếu giữa chức tư tế phổ quát và chức tư tế thừa tác mới được duy trì rõ ràng, và căn tính của trách vụ mà mỗi người nhận lãnh cũng trở nên thật rõ ràng.
96. Trong chiều hướng ấy, trách nhiệm trước tiên thuộc về Giám mục giáo phận, và trong mức độ gắn kết với ngài, là cha sở, lo liệu việc bổ nhiệm các phó tế, các tu sĩ và giáo dân đảm nhận các trách vụ trong giáo xứ, sao cho không chỉ định họ bằng những danh xưng như “cha sở”, “cha phó”, “cha tuyên úy”, “vị điều hành”, “người điều phối”, “phụ trách giáo xứ” hay các từ ngữ tương tự[141] vốn dành riêng cho linh mục theo luật định,[142] vì các danh ngữ ấy có mối tương quan trực tiếp với tính thừa tác của chức linh mục.
Cũng sẽ không hợp pháp và không phù hợp với căn tính ơn gọi của các tín hữu và phó tế như trên đây, khi dùng các kiểu nói như “giao phó trách nhiệm chăm sóc mục vụ một giáo xứ”, “chủ trì cộng đoàn giáo xứ” và các kiểu nói tương tự, vốn gắn liền với thừa tác vụ linh mục rõ rệt của một cha sở.
Chẳng hạn, các danh ngữ như “cộng tác viên phó tế” và, đối với tu sĩ hay giáo dân, “điều phối viên của (một ngành mục vụ riêng biệt)”, “cộng tác viên mục vụ” hoặc “phụ tá mục vụ” và “phụ trách” (một ngành mục vụ) có vẻ thích hợp hơn.
97. Theo quy tắc luật định, người giáo dân có thể lãnh tác vụ Đọc sách hay Giúp lễ có tính cách cố định trong một nghi thức phù hợp theo Giáo luật điều 230 §1. Người tín hữu không có chức thánh có thể dùng thuật ngữ “thừa tác viên ngoại thường”, chỉ khi nào thực sự họ được đấng bản quyền mời gọi[143] để thi hành các tác vụ phụ trợ theo Giáo luật điều 230 §3 và điều 943. Việc ủy nhiệm tạm thời trong các cử hành phụng vụ được đề cập trong Giáo luật điều 230 §2, dù kéo dài trong một thời gian nào đó, vẫn không được chỉ một danh tính đặc biệt nào cho người tín hữu không có chức thánh[144].
Những tín hữu giáo dân này phải hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công giáo[145], được đào tạo xứng hợp với trách vụ mà họ được mời gọi thi hành, đồng thời có hạnh kiểm cá nhân và mục vụ gương mẫu, giúp họ được tín nhiệm khi phục vụ cộng đồng.
98. Ngoài những gì liên hệ tới thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ[146], Giám mục, theo sự phán đoán khôn ngoan của ngài, có thể chính thức ủy nhiệm cho các phó tế, tu sĩ và các tín hữu giáo dân, những trách vụ khác[147], dưới sự hướng dẫn và trách nhiệm của cha sở, như sau đây:
1o Cử hành Phụng vụ Lời Chúa vào các ngày Chúa nhật và lễ buộc, khi “không thể tham dự Thánh Lễ vì không có thừa tác viên có chức thánh hay vì một lý do nghiêm trọng khác”[148]. Điều này được xem như tình huống ngoại thường, chỉ được phép thực hiện trong những trường hợp thật sự bất khả kháng và luôn lo liệu trao cho các phó tế cử hành các nghi thức phụng vụ này nếu có các phó tế hiện diện
2o Việc cử hành Bí tích Thánh Tẩy, được xem xét một cách thích đáng thì, “thừa tác viên thông thường của Bí tích Thánh Tẩy là giám mục, linh mục hay phó tế”[149] và theo Giáo luật điều 861 §2 có một ngoại lệ, sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng theo sự khôn ngoan của đấng Bản quyền sở tại.
3o Việc cử hành nghi thức an táng đã được trình bày ở số 19 trong Praenotanda (Lời Giới thiệu) của Nghi thức An táng Kitô giáo.
99. Người tín hữu giáo dân có thể giảng trong nhà thờ hay nguyện đường, do đòi hỏi của hoàn cảnh, nhu cầu hay một trường hợp đặc biệt “theo chỉ thị của Hội đồng Giám mục”[150] và “khi có phép rõ ràng theo luật định hay theo quy tắc phụng vụ, miễn là tuân thủ các điều kiện kèm theo”[151]. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, những người này không được phép giảng trong khi thánh lễ đang được cử hành[152].
100. Ngoài ra, “nơi đâu thiếu linh mục và phó tế, Giám mục giáo phận có thể ủy nhiệm cho người giáo dân chứng hôn sau khi được Hội đồng Giám mục chấp thuận và được Tòa Thánh cho phép[153].
101. Việc quản trị tài sản của mỗi giáo xứ ở một chừng mực nào đó là lãnh vực quan trọng trong sứ vụ Loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng, cả trong Hội Thánh và trong xã hội dân sự, vì “tất cả tài sản mà chúng ta có là do Chúa ban tặng để chúng ta đem đến cho thế giới, cho con người và để giúp đỡ tha nhân”[154]. Vì thế, cha sở không thể và không được chỉ chú tâm duy vào một công việc này thôi[155], do đó ngài cần được những cộng sự viên giúp đỡ trong việc quản trị tài sản của Hội Thánh trước hết với nhiệt tâm Loan báo Tin Mừng và tinh thần truyền giáo[156].
102. Vì lý do này, mỗi giáo xứ phải thành lập một Hội đồng kinh tế với tính cách như là một tổ chức tư vấn, do cha sở điều hành và có ít nhất ba người tín hữu khác[157]; tối thiểu cần phải có ba người để Hội đồng này được xem là một “tập hợp” nhân sự. Cần phải nhớ rằng cha sở không được kể là thành viên của Hội đồng kinh tế, nhưng ngài chủ trì hội đồng này.
103. Khi không có chỉ thị đặc biệt của Giám mục giáo phận, thì chính cha sở sẽ quyết định số thành viên của Hội đồng này, tùy thuộc vào số giáo dân trong giáo xứ và số thành viên này do cha sở chỉ định hay được Hội đồng giáo xứ bầu cử cách nào đó.
Các thành viên của Hội đồng này, không nhất thiết thuộc về chính giáo xứ, phải có tiếng tốt rõ ràng và là chuyên viên thuộc lãnh vực tài chính và luật pháp[158], để có đủ khả năng phục vụ một cách hữu hiệu và thành thạo; như thế Hội đồng này không phải được thiết lập chỉ để cho có đủ thủ tục.
104. Trừ khi Giám mục giáo phận quyết định cách khác, tùy theo sự khôn ngoan cần thiết và tuân theo quy tắc nào đó khả dĩ của luật dân sự, thì không có gì ngăn cản một người làm thành viên của Hội đồng kinh tế của nhiều giáo xứ cùng lúc, bất cứ khi nào hoàn cảnh đòi hỏi.
105. Bất cứ luật lệ khả dĩ nào do Giám mục giáo phận ban ra về các vấn đề này phải xét đến hoàn cảnh cụ thể của giáo xứ, chẳng hạn như phương tiện của giáo xứ rất eo hẹp, hay giáo xứ là thành phần của một đơn vị mục vụ[159].
106. Hội đồng kinh tế có thể đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển, trong nội bộ cộng đoàn giáo xứ, nền văn hóa đồng trách nhiệm, sự minh bạch trong quản trị và phục vụ các nhu cầu của Hội Thánh. Cách riêng, sự minh bạch ở đây không được hiểu chỉ là việc trình bày những dữ kiện mang tính hình thức, nhưng đúng hơn, là thông tin vì quyền lợi của cộng đoàn, và là cơ hội thuận tiện cho cộng đoàn tham gia công việc xây dựng chính mình. Tính minh bạch có liên hệ đến phương thức làm việc (modus agendi), là điều rất cần thiết cho uy tín của Hội Thánh, đặc biệt ở những nơi có những tài sản quan trọng phải quản lý.
107. Thông thường, có thể đạt được mục tiêu minh bạch bằng cách trình bày báo cáo tài chính hằng năm. Bản báo cáo này cần phải trình cho đấng Bản quyền sở tại trước[160] với chi tiết các chỉ số về thu nhập và chi tiêu. Từ bản báo cáo tài chính hằng năm này, toàn thể cộng đoàn có thể biết được rằng các tài sản này thuộc về giáo xứ chứ không phải của riêng cha sở; cha sở chỉ là người quản lý các tài sản ấy. Cộng đoàn cũng biết được các tài sản này được quản lý như thế nào, tình trạng tài chính của giáo xứ ra sao và những nguồn tài sản nào sẵn có để có thể sử dụng cách hữu hiệu.
108. Giáo luật hiện hành[161] để cho Giám mục giáo phận quyết định việc thành lập Hội đồng Mục vụ trong các giáo xứ, nhưng trong bất kì trường hợp nào, thường rất cần có Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở: “Các Hội đồng Mục vụ thật là cần thiết! Một Giám mục không thể điều hành giáo phận mà không có các Hội đồng Mục vụ. Một linh mục chính xứ cũng không thể nào điều hành được nếu không có Hội đồng Mục vụ”[162].
Sự uyển chuyển của nguyên tắc này cho phép xem xét thích nghi với các hoàn cảnh cụ thể, chẳng hạn trong trường hợp nhiều giáo xứ được giao phó cho một cha sở, hay các giáo xứ nằm trong một đơn vị mục vụ. Trong những trường hợp này, có thể thành lập một Hội đồng Mục vụ cho một số giáo xứ.
109. Ý nghĩa thần học của Hội đồng Mục vụ được ghi khắc trong thực tại cấu thành Hội Thánh, nghĩa là trong “Thân Mình Đức Kitô”, vốn sinh ra “linh đạo hiệp thông”. Thật vậy, trong cộng đoàn Kitô hữu, sự đa dạng của các đặc sủng và thừa tác vụ phát xuất từ việc tháp nhập vào Đức Kitô và từ ơn huệ của Chúa Thánh Thần sẽ không bao giờ hòa hợp với nhau nếu họ không trở nên “đồng điệu, cảm thấy phải chung tay thực hiện mọi sự và bình đẳng với nhau, luôn có cùng suy nghĩ theo cùng một cách thức”[163]. Trái lại, nhờ chức tư tế do Bí tích Thánh Tẩy[164], mỗi tín hữu được tạo nên là để xây dựng toàn thể Thân Mình Đức Kitô, và đồng thời xây dựng Dân Thiên Chúa, trong tinh thần đồng trách nhiệm giữa các thành viên với nhau, tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh, nghĩa là phân định các dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử, đồng thời trở nên nhân chứng cho Vương Quốc của Ngài[165].
110. Hội đồng Mục vụ không thể chỉ là một cơ quan hành chánh, nhưng phải làm Dân Thiên Chúa nổi bật ở vị trí trung tâm và giúp thể hiện điều đó. Dân Chúa là chủ thể và là những người giữ vai trò tích cực trong sứ vụ Loan báo Tin Mừng, bởi từng tín hữu thành viên đã đón nhận ơn của Chúa Thánh Thần trong Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thêm Sức. “Được tái sinh vào đời sống thần linh nhờ Bí tích Thánh Tẩy là bước đầu tiên; kế tiếp là chúng ta sống tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là làm sao để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Đấng hoạt động trong Hội Thánh, tích cực tham gia vào sứ mạng của Hội Thánh trong thế giới. Để được như thế, chúng ta cần được xức dầu bởi Thần Khí: “Nếu không có Chúa ban sức, loài người chúng con không là gì cả” (x. Ca tiếp liên Lễ Hiện Xuống). […] Cũng như cả cuộc đời của Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, cũng thế đời sống của Hội Thánh và của mỗi chi thể trong Hội Thánh cũng được chính Thần Khí ấy hướng dẫn”[166].
Dưới ánh sáng của tầm nhìn cơ bản này, chúng ta nhớ đến những lời của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI: “Nhiệm vụ của Hội đồng Mục vụ là nghiên cứu, khảo sát mọi sự có liên quan đến hoạt động mục vụ, và đưa ra những kết luận thực tiễn liên hệ đến những điều ấy nhằm thúc đẩy đời sống và hoạt động của Dân Chúa sao cho phù hợp với Tin Mừng”[167], với ý thức rằng mục đích của Hội đồng này, như Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở, “chính yếu không phải là tổ chức Hội Thánh nhưng là khát vọng truyền giáo muốn vươn đến với hết thảy mọi người”[168].
111. Hội đồng Mục vụ là một tổ chức tư vấn, tuân theo những quy tắc được Giám mục giáo phận đưa ra, xác định tiêu chuẩn thành lập, các phương pháp bầu cử thành viên, mục tiêu và phương thức hoạt động[169]. Dù sao đi nữa, để tránh làm sai lệch bản chất của Hội đồng này, tốt nhất là tránh định nghĩa Hội đồng như một “nhóm” hay một “đội”, nghĩa là tránh dùng những từ ngữ không thích hợp để diễn tả cụ thể mối tương quan, về mặt Hội Thánh và Giáo luật, giữa cha sở và cộng đoàn tín hữu.
112. Về mặt luật lệ liên quan của giáo phận, điều cần thiết là Hội đồng Mục vụ phải gồm những người thực sự đại diện cho cộng đoàn, mà Hội đồng diễn tả qua tư cách các thành viên (linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân). Điều này làm nên một môi trường đặc biệt trong đó người tín hữu có thể thực thi quyền lợi và bổn phận nói lên ý kiến riêng của mình với các mục tử về tài sản của cộng đoàn giáo xứ[170] và truyền thông cho các tín hữu khác.
Thế nhưng, nhiệm vụ chính của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ là tìm kiếm và nghiên cứu đề xuất các sáng kiến thực tiễn về mục vụ và bác ái liên quan đến giáo xứ, phù hợp với đường hướng của giáo phận.
113. Hội đồng Mục vụ Giáo xứ “chỉ có quyền tư vấn”[171], theo nghĩa các ý kiến của Hội đồng này cần phải được cha sở quan tâm chấp thuận thì mới được đem ra thực hành. Cha sở phải chú tâm xem xét cẩn thận các ý kiến của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, nhất là khi các thành viên đồng lòng đưa ý kiến trong tiến trình phân định chung.
Để Hội đồng Mục vụ có thể phục vụ hữu hiệu và có kết quả tốt đẹp, cần phải tránh hai thái cực: một là, cha sở đưa ra cho Hội đồng Mục vụ Giáo xứ quyết định có sẵn của mình, hoặc ngài không nắm trước những thông tin cần thiết, hoặc chỉ triệu tập thi thoảng cho có hình thức; hai là, một Hội đồng Mục vụ Giáo xứ mà cha sở chỉ là một thành viên trong đó, trên thực tế ngài đánh mất vai trò mục tử và lãnh đạo cộng đoàn[172].
114. Cuối cùng, Hội đồng Mục vụ trong khả năng hết sức có thể nên bao gồm phần nhiều các thành viên là những người thực sự có trách nhiệm trong đời sống mục vụ của giáo xứ, hoặc những người dấn thân cụ thể trong đời sống ấy, để tránh trường hợp biến những cuộc họp thành những cuộc trao đổi những ý kiến trừu tượng, không màng đến đời sống thực của cộng đoàn, với những nguồn lực cũng như vấn đề của cộng đoàn.
115. Khi một cộng đoàn tín hữu không có điều kiện trở thành giáo xứ hay chuẩn giáo xứ[173] thì Giám mục giáo phận, sau khi tham khảo ý kiến Hội đồng linh mục[174], phải có giải pháp chăm sóc mục vụ cách khác[175], chẳng hạn cân nhắc khả năng lập những trung tâm mục vụ, tùy thuộc ở cha sở địa phương, như những “giáo điểm” để đẩy mạnh việc Loan báo Tin Mừng và thực thi bác ái. Trong những trường hợp như thế, cần phải thiết lập một nhà thờ hay nhà nguyện trong các trung tâm mục vụ ấy[176] và đồng thời đưa ra các luật lệ của giáo phận liên quan đến các hoạt động của các tổ chức ấy, làm thế nào để chúng có thể được điều phối và bổ túc với sự tôn trọng y như thực hiện cho các giáo xứ.
116. Các trung tâm được xác định như thế, trong một số giáo phận được gọi là “Trung tâm phục vụ”, nơi nào có thể thì được giao phó cho một cha phó, hay đặc biệt trao cho các phó tế vĩnh viễn. Các phó tế có trách nhiệm chăm sóc điều hành cùng với các gia đình trong Trung tâm, thuộc trách nhiệm của linh mục chính xứ.
118. Một chủ đề liên quan đến đời sống các giáo xứ và sứ vụ Loan báo Tin Mừng là các khoản dâng cúng cho việc cử hành Thánh Lễ, được chỉ định cho linh mục cử hành, và các khoản cho các Bí tích khác thì thuộc về giáo xứ[177]. Điều này có nghĩa là việc dâng cúng tự bản chất phải là hành vi tự do về phía người dâng cúng, tùy theo lương tâm và ý thức trách nhiệm đối với Hội Thánh, chứ không phải là “giá phải trả” hay “phí phải nộp”, cứ như là một loại “thuế thu trên các bí tích”. Thật ra, với việc dâng cúng cho việc cử hành Thánh Lễ, “người Kitô hữu […] đóng góp vào phúc lợi của Hội Thánh và […] chia sẻ mối quan tâm nâng đỡ các thừa tác viên và công việc của các ngài[178].
119. Như thế, sự nhạy cảm của người tín hữu tỏ hiện bằng việc làm là rất quan trọng. Qua đó, họ tự nguyện cộng tác vì những nhu cầu của giáo xứ, cũng là “nhu cầu của chính họ”. Bởi thế thật là tốt đẹp nếu họ học cách tự nguyện đảm nhận trách nhiệm, đặc biệt trong những quốc gia mà bổng lễ vẫn là nguồn thu nhập duy nhất cho các linh mục và cũng là nguồn duy nhất dành cho công cuộc Loan báo Tin Mừng.
120. Sự nhạy cảm này càng phát sinh hiệu quả khi các linh mục, phần mình, các ngài càng nêu gương đức hạnh trong việc sử dụng tiền bạc, qua việc sống tiết độ, không hưởng dùng nhu cầu cá nhân quá mức, hoặc gương mẫu trong việc quản lý minh bạch tài sản giáo xứ. Việc quản trị hữu hiệu được đo lường không phải qua các “dự án”, của cha sở hay của một nhóm nhỏ, tốt nhưng trừu tượng, nhưng đáp ứng các nhu cầu thực sự của tín hữu, đặc biệt người nghèo và người túng thiếu.
121. Dù sao đi nữa, “tuyệt đối tránh mọi hình thức thương mại hay buôn bán trong vấn đề bổng lễ”[179], nhớ rằng “rất khuyến khích các linh mục cử hành Thánh Lễ theo ý chỉ của các Kitô hữu, nhất là của những người nghèo túng, ngay cả khi các ngài không nhận được bổng lễ”[180].
Trong các phương thức được đề nghị sử dụng để đạt được mục đích đó, người ta có thể nghĩ đến việc nhận bổng lễ mà không nêu danh tính, nhờ đó mọi người cảm thấy thoải mái dâng cúng theo khả năng hoặc theo ý của họ mà không cảm thấy bó buộc phải đáp ứng một quy định hay một mức giá nào.
122. Nhắc nhớ lại Giáo hội học theo Công đồng Vaticanô II dưới ánh sáng của Huấn quyền gần đây, và xem xét bối cảnh xã hội và văn hóa đã thay đổi sâu sắc, Huấn thị này nhằm tập trung vào chủ đề đổi mới giáo xứ theo hướng truyền giáo.
Trong khi vẫn là một định chế thiết yếu để gặp gỡ và quan hệ sống động với Đức Kitô và với anh chị em trong đức tin, cũng thế, giáo xứ vẫn phải thường xuyên đối mặt với các thay đổi diễn ra trong văn hóa ngày nay và trong cuộc sống của con người, làm sao để tìm tòi sáng tạo những cách thức và phương pháp mới mẻ để Hội Thánh thực hiện thật hiệu quả sứ vụ đệ nhất của mình, là trở nên nguồn lực Loan báo Tin Mừng.
123. Bởi thế, hoạt động mục vụ cần đi ra ngoài ranh giới địa dư của giáo xứ, tạo sự hiệp thông trong Hội Thánh cách rõ ràng cụ thể hơn nhờ biết phối hợp giữa những thừa tác viên và các đặc sủng khác nhau, xây dựng giáo xứ trở thành tác nhân “chăm sóc mục vụ cùng nhau”, phục vụ cho giáo phận và sứ mạng của giáo phận.
Đó là một hoạt động mục vụ, nhờ việc hợp tác hữu hiệu và sống động giữa các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, cũng như giữa các cộng đoàn giáo xứ trong khu vực hay trong vùng, cùng nhau quan tâm tìm kiếm xác định những vấn đề, những khó khăn và thách đố về việc Loan báo Tin Mừng, tìm cách kết hợp các cách thức, phương thế, ý kiến và phương tiện thích hợp để giải quyết các vấn đề ấy. Một dự phóng truyền giáo chung như thế có thể được soạn thảo và thực hiện liên hệ đến bối cảnh xã hội và địa lí gần gũi, nghĩa là trong những cộng đoàn gần nhau hay có cùng những điều kiện văn hóa xã hội như nhau, hoặc có liên quan đến các lãnh vực mục vụ gắn kết với nhau, chẳng hạn trong một nhóm phối hợp thiết yếu việc chăm sóc mục vụ giới trẻ, các trường đại học và ơn gọi, như đã có trong nhiều giáo phận.
Bởi thế, ngoài sự phối hợp có trách nhiệm các hoạt động và các tổ chức mục vụ có khả năng liên kết và hợp tác, việc chăm sóc mục vụ cùng nhau còn đòi hỏi mọi người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy cùng cộng tác. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Khi chúng ta nói đến “dân”, thì không được hiểu là các cấu trúc xã hội hay của Hội Thánh, nhưng là nói về toàn thể những người đang lữ hành, không với tính cách cá nhân, nhưng như là một cộng đoàn liên kết chặt chẽ mọi người với nhau và vì mọi người”[181].
Điều này đòi hỏi không để cơ chế giáo xứ lịch sử bị giam hãm bất động hay đóng khung trong những việc mục vụ quen thuộc nhàm chán, nhưng trái lại, cần sống sự “năng động đi ra”, bằng cách cùng hợp tác giữa các cộng đoàn giáo xứ khác nhau và sống tình hiệp thông được củng cố giữa giáo sĩ và giáo dân, như thế giáo xứ mới được định hướng một cách hữu hiệu hướng đến sứ vụ Loan báo Tin Mừng, là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa; một Dân vốn đang lữ hành trong lịch sử như là “gia đình của Thiên Chúa” trong đó các thành viên cùng liên kết làm việc để cho toàn thể Thân mình Hội Thánh phát triển.
Như thế, văn kiện này ngoài việc nhấn mạnh tính cấp bách của việc đổi mới, còn trình bày một cách áp dụng các quy tắc Giáo luật quy định những điều có thể, những giới hạn, những quyền hạn và bổn phận của các mục tử và giáo dân, để giáo xứ có thể tái khám phá chính mình là căn cứ nền tảng của công cuộc Loan báo Tin Mừng, cử hành Thánh Thể, sống tình huynh đệ và bác ái, từ đó chứng tá cho Đức Kitô được chiếu sáng trên thế gian. Điều ấy có nghĩa là giáo xứ “phải luôn là một nơi của sáng tạo, sống tương quan và tình mẫu tử. Chính ở nơi đây khả năng sáng tạo được thể hiện. Và khi một giáo xứ phát triển theo hướng này, giáo xứ sẽ đạt được điều mà tôi gọi là một “giáo xứ đi ra”[182].
124. Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta khẩn cầu “Đức Maria, Mẹ của công cuộc Loan báo Tin Mừng”, để “Đức Trinh Nữ giúp chúng ta thưa tiếng “xin vâng” của mình, ý thức nhu cầu cấp bách làm cho Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại chúng ta. Xin Mẹ khẩn cầu cho chúng ta được lòng nhiệt thành mới mẻ để chúng ta đem đến cho mọi người Tin Mừng sự sống chiến thắng tử thần. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta để chúng ta có được sự bạo dạn thiêng liêng cần thiết để khám phá những phương thức mới đem ơn cứu độ đến cho mọi người”[183].
Ban hành tại Rôma vào ngày 29 tháng 6 năm 2020,
Lễ trọng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.
Hồng y Beniamino Stella
Tổng trưởng
Giám mục Joël Mercier
Thư ký
Giám mục Jorge Carlos Patrón Wong
Thư ký đặc trách chủng viện
Đức ông Andrea Ripa
Phụ tá Thư ký
Chuyển ngữ: Gm. Luy Nguyễn Anh Tuấn
và Nhóm Dịch thuật HĐGMVN
WHĐ (09.9.2022)
[2] Cf. Id., Evangelii Gaudium (24.11.2013), s.287: AAS 105 (2013), 1136 .
[3] Ibid., s.49: AAS 105 (2013), 1040
[4] Cđ. Vaticanô II, Gaudium et Spes (7.12.1965), s.58: AAS 58 (1966), 1079.
[5] Id. , s.44: AAS 58 (1966), 1065 .
[6] Cf. Th. Eprem, Commentary on Tatian’s Diatessaron 1, 18-19: SC 121, 52-53
[7] ĐGH Phanxicô, Laudato Si’ (24.05-2015), s.68: AAS 107 (2015), 847 .
[8] Cf. Th. GH Phaolô VI, Thông điệp Ecclesiam Suam (6.08.1964): AAS 56 (1964), 639.
[9] ĐGH Phanxicô, Evangelii Gaudium, s.27: AAS 105 (2013), 1031
[10] Cf. Th. GH Gioan Phaolo II, Christifideles Laici (30.12.1988), s. 26: AAS 81 (1989), 438.
[11] ĐGH Phanxicô, Tiếp kiến chung (12.06.2019): L’Osservatore Romano 134 (13-6-2019), 1
[12] Cđ. Vaticanô II, Christus Dominus (28.10.1965), s. 30: AAS 58 (1966), 688
[13] Th. GH Gioan Phaolo II, Diễn văn trước Tham dự viên Khoáng đại Hội nghị Bộ Giáo sĩ (20.10.1984), s. 3 và 4: Insegnamenti VII/2 (1984), 984 và 985; x. Id., Catechesi Tradendae (16.10.1979), s. 67: AAS 71 (1979), 1332.
[14] ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng khi thăm viếng mục vụ giáo xứ Our Lady Star of Evangelisation, Rome (10.12.2006): Insegnamenti II/2 (2006), 795
[15] ĐGH Phanxicô, Evangelii Gaudium, s. 28: AAS 105 (2013), 1032.
[16] Cf. Gaudium et Spes, s. 4: AAS 58 (1966), 1027
[17] Cf. Gaudium et Spes, s. 1: AAS 58 (1966), 1027
[18] Cf. Evangelii Gaudium, các số 72-73: AAS 105 (2013), 1050-1051
[19] Cf. Thượng Hội đồng Giám mục Thế Giới, Đại hội Khoáng đại Thường lệ XV (3-28.10.2018): “Giới Trẻ, Đức Tin và Phân định Ơn gọi”, Văn kiện chung kết, s.129 “Trong bối cảnh này, một nhận thức về giáo xứ được xác định chỉ bởi biên giới lãnh thổ và không có khả năng làm cho các tín hữu tham gia vào các sáng kiến đa dạng, nhất là những người trẻ giam hãm giáo xứ trong sự tù túng không thể chấp nhận được và trong những chu kỳ mục vụ lặp đi lặp lại một cách nhàm chán”: L’Osservatore Romano 247 (29-30.10.2018), 10
[20] Cf. Bộ Giáo Luật (BGL), các điều khoản 102; 1015-1016; 1108 §1
[21] Christifideles Laici, s.25: AAS 81 (1989), 436-437
[22] Cf. Evangelii Gaudium, s.174: AAS 105 (2013), 1093
[23] Cf. Ibid., ss. 164-165: AAS 105 (2013), 1088-1089
[24] Cđ. Vaticanô II, Lumen Gentium (21.11.1964), s.11: AAS 57 (1965), 15
[25] Cf. Evangelii Gaudium, các số 166-167: AAS 105 (2013), 1089-1090
[26] ĐGH Phanxicô, Gaudete et Exultate (19.03.2018), s.35: AAS 110 (2018), 1120. Những lời sau đây của Đức Phanxicô có liên quan đến thuyết Ngộ đạo và thuyết Pêlagiô đều đáng nhắc đến ở đây: “Tính chất trần thế này có thể được bồi tiếp theo hai cách liên kết sâu xa với nhau. Một đàng là sự hấp dẫn của thuyết Ngộ đạo, một niềm tin thuần túy chủ quan mà mối quan tâm duy nhất là một kinh nghiệm nào đó hay một tập hợp các ý tưởng và các thông tin nhằm an ủi và soi sáng, nhưng rốt cuộc lại cầm tù người ta trong chính các tư tưởng và tình cảm của họ. Đằng kia là thuyết Tân-Pêlagiô chỉ quan tâm đến bản thân theo kiểu thần Promêtê của những người rốt cuộc chỉ tin vào sức mình và tự cảm thấy mình hơn người khác bởi vì giữ được ít nhiều quy định hoặc vẫn còn trung thành không lay chuyển với tác phong Công giáo cổ xưa”. Evangelii Gaudium, s.94: AAS 105 ((2013), 1059-1060; x. thêm Bộ Giáo lý Đức Tin, Thư Placuit Deo (22.02.2018): AAS 110 (2018), 429.
[27] Cf. Thư gửi Diognetus V, 1-10: Patres Apostolici, ed. F.X. Funk, Tập 1, Tubingae 1901, 398
[28] Cf. Th. GH Gioan Phaolo II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6.01.2001), s.1: AAS 93 (2001), 266
[29] Evangelii Gaudium, s.28: AAS 105 (2013), 1032.
[30] Cf. BGL các điều khoản 515; 518; 519.
[31] Evangelii Gaudium, s.28: AAS 105 (2013), 1031-1032.
[33] Cf. ĐGH Phanxico, Christus Vivit (25.03.2019), s.238, Vatican 2019
[34] Cf. Id., Tông sắc Misericordiae Vultus (11.04.2015), n.3: AAS 107 (2015), 400-401
[35] ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn từ với các giám mục Brazil (11.05.2007), s.3: Insegnamenti III/I (2007), 826
[36] Evangelii Gaudium, s.198: AAS 105 (2013), 1103
[37] Cf. ĐGH Phanxicô, Suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Santa Marta (30.10.2017).
[38] Cf. Evangelii Gaudium, ss.186-216: AAS 105 (2013), 1098-1109
[39] Cf. Gaudete et Exultate, ss.95-99: AAS 110 (2018), 1137-1138.
[40] Cf. Evangelii Gaudium, s.27: AAS 105 (2013), 1031; cf. ibid., s.189: AAS 105 (2013), 1099: “Thay đổi cơ cấu mà không tạo ra những xác tín và những thái độ mới, thì chính những cơ cấu đó sớm muộn gì cũng trở nên biến chất, ngột ngạt và vô hiệu”
[41] Ibid., s.26: AAS 105 (2013), 1030-1031
[42] Christus Dominus, s.30: AAS 58 (1966), 688
[43] ĐGH Phanxicô, Lời Chào mừng Lễ Giáng Sinh với Giáo triều Rôma (22.12.2016): AAS 109 (2017), 44.
[47] Lumen Gentium, s.9: AAS 57 (1965), 13.
[48] Cf. Bộ Giáo sĩ, Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis (8.12.2016), ss.80-88, Vatican City 2016, 37-42
[50] Cf. ibid., 374 §2; cf. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam Mục Vụ của Giám Mục “Apostolorum Successores” (22.02.2004), s.217: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2110
[53] Cf. Apostolorum Successores, s.218: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2114.
[54] Cf. BGL, can. 515 §2
[57] Cf. ibid., 121-122; cf. Apostolorum Successores, s.214: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2099
[60] Cf. ibid., 500 §2 and 1222 §2
[64] Cf. Apostolorum Successores, s.217: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2110.
[69] Cf. Hội Đồng Tòa Thánh về Chăm sóc Mục Vụ Di Dân và Người Lưu động, Erga Migrantes Charitas Christi (3.05.2004), s.95; Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2548.
[70] Cf. Apostolorum Successores, s. 215: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2104.
[80] Cf. Apostolorum Successores, s. 219: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2117; nên dành riêng danh hiệu “khu vực mục vụ” cho loại cụm hạt này mà thôi, để tránh lẫn lộn
[81] Cf. BGL, 134 §1 và 476.
[82] Cần phải lưu ý rằng: a) những gì đề cập đến “Giám mục giáo phận” cũng được áp dụng đối với những vị khác mà luật quy định; b) những gì đề cập đến giáo xứ và cha sở cũng được áp dụng cho chuẩn giáo xứ và cha quản nhiệm; c) liên quan đến các tín hữu, luật cũng áp dụng cho thành viên các Hội dòng Tận hiến và Tu đoàn Tông đồ, trừ khi có sự tham chiếu rõ rệt về tính đặc thù giáo dân; d) Thuật ngữ “Người điều hành” mang nhiều ý nghĩa khác nhau dựa trên bối cảnh được sử dụng trong Huấn thị này tuân theo chỉ dẫn của Bộ Giáo Luật.
[83] Cf. Lumen Gentium, s.26: AAS 57 (1965), 31-32.
[84] Cf. Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, ss.83; 88.e, tr.37; 39
[86] Cf. Cđ. Vaticanô II, Presbyterorum Ordinis (07.12.1965), 8: AAS 58 (1966), 1003.
[87] Cf. Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, s.88, tr. 39-40.
[88] Cf. ĐGH Phanxicô, Diễn văn nói với các tham dự viên Hội Nghị Bộ Giáo Sĩ nhân dịp kỷ niệm 50 năm sắc lệnh Đào tạo linh mục Optatam Totius và sắc lệnh Presbyterorum ordinis (20.11.2015): AAS 107 (2015), 1295
[95] Cđ. Vaticanô II, Christus Dominus, 31: AAS 58 (1965), 689.
[101] Cf. BGL 1740-1752, kể cả các khoản luật 190-195.
[105] Cf. BGL 189 §2 và Apostolorum successores, 212: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2095.
[106] Apostolorum Successores, s.212: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2095.
[108] Cf. BGL 539, 549, 1747 §3
[109] BGL 517 §1; tham khảo cả các điều 542-544.
[110] Cf. BGL 517 §1 và 526 §1
[112] Cf. BGL 543 §2-3; điều này cũng giả định người điều hành cũng là người đại diện mang tính pháp lý dân sự, tại các quốc gia mà giáo xứ được Nhà Nước công nhận tính cách pháp nhân.
[115] Cf. BGL 545 §2; chẳng hạn, một linh mục có kinh nghiệm thiêng liêng nhưng sức khỏe yếu được bổ nhiệm làm cha giải tội cho năm giáo xứ lân cận.
[118] ĐGH Phanxicô, Diễn văn trong buổi gặp gỡ các linh mục và tu sĩ, Milanô (25.03.2017): AAS 109 (2017), 376.
[120] Lumen Gentium, s.29: AAS 57 (1965), 36
[121] Th. GH Phaolô VI, Diễn văn với các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về chức Phó tế, 25.10.1965: Enchiridion sul Diaconato (2009), 147-148
[123] Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Iuvenescit Ecclesia gởi các Giám mục Công giáo về mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các đoàn sủng sủng phục vụ cho sự sống và sứ vụ của Hội Thánh (15.05.2016), s. 21: Enchiridion Vaticanum 32 (2016), 734.
[124] Ibid., s.22: Enchiridion Vaticanum 32 (2016), 738.
[126] Cf. Bộ Đời sống thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ, Mutuae relations. Các quy định chỉ dẫn về tương quan giữa Giám mục và tu sĩ trong Hội thánh (14.05.1978), 10.14: Enchiridion Vaticanum 6 (1977-1979), 604-605; 617-620; cf. Apostolorum successores, 98: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 1803-1804.
[127] Cf. Evangelii Gaudium, s.102: AAS 105 (2013), 1062-1063.
[128] Cf. Christifideles Laici, s.23: AAS 81 (1989), 429.
[129] Evangelii Gaudium, s.201: AAS 105 (2013), 1104
[130] Lumen Gentium, s.31: AAS 57 (1965), 37.
[131] Th. GH Phaolo VI, Evangelii nuntiandi (8.12.1975), 73: AAS 68 (1976), 61.
[132] Evangelii Gaudium, s.81: AAS 105 (2013), 1053-1054.
[134] Cf. Apostolorum Successores, s.215, c): Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2105
[135] Bộ Giáo sĩ, Ecclesiae de mysterio (15.08.1997), 4 §1, a-b: AAS 89 (1997), 866-867; cf. Apostolorum succesores, 215: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2105. Vị linh mục này cũng là đại diện pháp lý của giáo xứ, cả về giáo quyền lẫn dân sự, nếu Luật quốc gia qui định như thế.
[136] Trước khi sử dụng giải pháp được nêu lên trong điều 517 §2, Giám mục giáo phận cần cân nhắc cẩn thận các giải pháp lựa chọn khác, chẳng hạn sử dụng các linh mục cao niên vẫn còn khỏe mạnh cho thừa tác vụ, hay trao phó nhiều giáo xứ khác nhau cho một cha sở hoặc ủy thác nhiều giáo xứ cho một nhóm tư tế in solidum.
[137] Cf. Ecclesiae de mysterio, điều 4 §1, b): AAS 89 (1997), 866-867, và Bộ Giáo sĩ, Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ (04.08.2002), ss. 23 và 25, cách đặc biệt, bàn về việc “cộng tác trong việc chăm sóc mục vụ tại giáo xứ”, cf. s.23: Enchiridion Vaticanum 21 (2002), 834-836.
[138] Cf. Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.25: Enchiridion Vaticanum 21 (2002), 836.
[140] Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.23: Enchiridion Vaticanum 21 (2002), 834
[141] Cf. Ecclesia de Mysterio, 1 §3: AAS 89 (1997), 863.
[142] Cf. Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.23: Enchiridion Vaticanum 21 (2002), 835
[143] Cf. Apostolorum Successores, s.112: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 1843.
[144] Nên nhớ rằng, ngoài tác vụ Đọc sách ủy thác cho người nam, Đức Giám mục sau khi tham khảo ý kiến Hội Đồng Giám Mục có thể ủy thác lâm thời cho người giáo dân (nam cũng như nữ) nhiệm vụ phục vụ Bàn thánh, sao cho phù hợp với các khoản Giáo luật liên quan; cf. Bộ Giải thích các Văn bản Giáo luật, Trả lời (11.07.1992): AAS 86 (1994), 541; Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Thư luân lưu (15.03.1994): AAS 86 (1994), 541-542.Cf. BGL, 205
[147] Trong khi Đức Giám mục ủy thác các nhiệm vụ nói trên cho phó tế hay giáo dân, ngài phải xác định rõ ràng các phận vụ được làm và trong thời gian bao lâu.
[151] Ecclesia de Mysterio, 3 §4: AAS 89 (1997), 865
[152] Cf. BGL, 767 §1; cf. Ecclesia de Mysterio, 3 §1: AAS 89 (1997), 864.
[153] BGL. 1112 §1; cf. Th. GH Gioan-Phaolô II, Pastor Bonus (28.06.1998), 63: AAS 80 (1988), 876, về thẩm quyền của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích.
[154] ĐGH Phanxicô, Suy niệm hằng ngày tại Casa Santa Marta (21.10.2013): L’Osservatore Romano 242 (21-22 October 2013), 8.
[155] Cf. BGL, các đ. 537 và 1280.
[156] Theo BGL đ.532, cha sở có trách nhiệm quản trị tài sản của giáo xứ, cả khi ngài phải sẵn sàng để giáo dân có chuyên môn cộng tác việc quản trị này
[157] Cf. BGL, 115 §2 và tương tự, đ. 492 §1.
[158] Cf. ibid., 537 và Apostolorum Successores, s.210: Enchiridion Vaticanum 22 (2003-2004), 2087.
[159] Cf. BGL, 517 và 526.
[160] Cf. ibid., 1287 §1.
[162] ĐGH Phanxicô, Diễn từ trong buổi gặp gỡ với các giáo sĩ, những người sống thánh hiến và các thành viên các hội đồng mục vụ, Assisi (4.10.2013): Insegnamenti I/2 (2013), 328.
[163] Id., bài Giảng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, 4.06.2017: AAS 109 (2017), 711.
[164] Cf. Lumen Gentium, s.10: AAS 57 (1965), 14.
[165] Cf. Bộ Giáo sĩ, Thư luân lưu gửi toàn thế các tín hữu (25.01.1973), ss. 4 và 9: Enchiridion Vaticanum 4 (1971-1973), 1199-1201 and 1207-1209; cf. Christifideles Laici, s.27: AAS 81 (1989), 440-441.
[166] ĐGH Phanxicô, Tiếp kiến chung (23.05.2018).
[167] Th. GH Phaolô VI, Motu Proprio Ecclesiae Sanctae (6.08.1966), I, 16 §1: AAS 58 (1966), 766; cf. BGL. 511.
[168] Evangelii Gaudium, s.31: AAS 105 (2013), 1033.
[172] Cf. Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn giáo xứ, s.26: Enchiridion Vaticanum 21 (2002), 843.
[176] Cf. Ibid., các đ. 1214, 1223 and 1225.
[177] Cf. Ibid., đ. 848 và 1264, 2° và các đ. 945-958; cf. Bộ Giáo sĩ, Sắc lệnh Mos Iugiter (22.02.1991), được Đức Gioan-Phaolô II phê chuẩn bằng một thể thức đặc biệt: Enchiridion Vaticanum 13 (1991-1993),
[181] ĐGH Phanxicô, Christus Vivit, s.231.
[182] Id., Diễn từ trong buổi Gặp gỡ các Giám mục Ba Lan, Crakôvi (27.07.2016): AAS 108 (2016), 893.
[183] Id., Thông điệp Ngày Thế giới Truyền giáo 2017 (4.06.2017), s.10: AAS 109 (2017), 764.