Lời thầm thì mãnh liệt của Thập giá
Thứ hai - 08/09/2025 19:09
600
Các bạn có thể nghe bài viết tại đây:
Khi diễn tả ý nghĩa cái chết của mình trên thập giá, Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisêu: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15). Lời này gợi lại biến cố dân Israel phản loạn với Đức Chúa trong sa mạc, nên Ngài đã cho rắn độc ra trừng phạt họ. Để những ai bị rắn cắn khỏi phải chết, Đức Chúa đã truyền cho ông Môsê rằng: “Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống” (Ds 21,8).
Lặng lẽ chiêm ngắm Thập giá Đức Giêsu, chúng ta có thể nghe được lời đảm bảo xưa vẫn còn vẹn nguyên: “Nhìn lên sẽ được sống”. Chắc chắn đây không dừng lại ở cái nhìn của giác quan, mà Chúa muốn hướng chúng ta đến một cái nhìn sâu xa hơn – cái nhìn của sự thức tỉnh tâm linh. Đó phải là cái nhìn dẫn chúng ta đến với “niềm tin vào Con Người”. Tin khi nhìn vào một Đức Giêsu vinh quang, với những phép lạ lớn lao: cho người chết sống lại, người mù được thấy, người cùi được sạch…, là một chuyện không quá khó khăn. Tuy nhiên, tin khi hướng ánh mắt lên một Giêsu trần trụi, bầm giập, “chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Is 53,2), thì đó quả là một lời mời gọi đầy thách đố, đòi chúng ta phải vượt khỏi cái tiêu chuẩn yêu ghét hời hợt, cảm tính của con người, để đi vào chiều sâu của chữ “tin”. Chúng ta chỉ có thể tin được khi cảm nếm nơi Giêsu bị treo trên đó, một điều gì đụng chạm đến cốt lõi thẳm sâu của hạnh phúc và sự sống của chính mình. Còn nếu chúng ta bàng quan trước Thập giá, như thể đó là một điều xa lạ, chẳng liên hệ gì đến mình, thì chúng ta chẳng thể nối kết với suối nguồn tình yêu, tuôn trào từ nơi Thập giá Đức Giêsu, và đặt mình đứng ngoài lề ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là một biến cố cách đây cả hai ngàn năm, nơi một bối cảnh địa lý, chính trị, văn hóa, xã hội hoàn toàn xa lạ thì có liên quan gì đến cuộc sống của con người thời đại ngày nay?
Trước hết, Thập giá Đức Giêsu là lời mạc khải rõ ràng và sinh động nhất về bản chất của tội lỗi. Có triệu triệu kiểu cám dỗ khác nhau đã được ma quỷ sử dụng, và chắc chắn nó sẽ còn bịa đặt ra nhiều kiểu cám dỗ tinh vi nữa, nhưng nếu suy xét kỹ, tất cả chúng, tuy muôn hình muôn vẻ, nhưng đều có chung một xuất phát điểm nền tảng, đó là lời dối trá hấp dẫn, đầy ngọt ngào của ma quỷ: “Chẳng chết chóc gì đâu, chẳng qua Thiên Chúa không muốn các ngươi hạnh phúc nên bịa ra thế để dọa các ngươi thôi, nhưng nếu các ngươi can đảm dám làm trái ý Ngài, các ngươi sẽ không còn là những thụ tạo tầm thường nữa, mà các người là những vị thần đầy quyền năng”. Ai phạm tội chả nghĩ rằng làm như vậy sẽ mang đến niềm vui, hạnh phúc cho mình? Giả như người ta tỉnh táo để thấy được cái bộ mặt xấu xí, ghê tởm, đằng sau lớp vỏ ngụy trang đầy lộng lẫy của tội lỗi, thì chắc hẳn lời lôi kéo của ma quỷ đã chẳng còn hấp dẫn được họ nữa. Ôi! Cái ngốc nghếch nhất và cũng là cái đáng thương nhất của con người là nhân danh khát vọng hạnh phúc, để chà đạp và hủy hoại hạnh phúc thật của mình. Dù ban đầu, tội lỗi có “thả mồi” bằng những thứ bả thơm tho, đẹp đẽ, thì chắc chắn cái đích nó đưa đến là vực sâu tăm tối của cái chết, bị tước đoạt mọi thứ.
Để thức tỉnh một nhân loại đang u mê trong những ảo tưởng về một thứ hạnh phúc lầm lạc, Đức Giêsu đã sẵn sàng bước lên thập giá. Trên thập giá, Người đã chấp nhận mang vào mình tất cả tội lỗi của nhân loại, để mình “trở nên hiện thân của tội lỗi” (2Cr 5,21), và bởi vì ai mang tội nơi mình thì người đó chắc chắn sẽ phải chết, nên cái chết của Đức Giêsu thực chất là việc “Thiên Chúa lên án tội trong thân xác Con mình” (Rm 8,3). Chúng ta đừng nghĩ khi Đức Giêsu chết trên thập giá, Ngài hoàn toàn lặng im, thì chẳng có âm thanh nào có thể cất lên. Không! Hình ảnh ghê rợn đó là lời vạch trần hùng hồn và thuyết phục nhất cho cái gọi là “niềm hạnh phúc” của tội lỗi. Ngài dùng cả mạng sống để gào lên trước một nhân loại điếc lác với thánh ý của Thiên Chúa, nhưng lại rất tinh nhạy trước lời lẽ của ma quỷ, rằng “Hãy nhìn lên Ta đây! Lương bổng mà tội lỗi trả cho con người là thế này đây: không phải hạnh phúc mà là đau khổ, chẳng phải sự sống mà là cái chết. Sức mạnh tăm tối của tội lỗi có thể nhục mạ một Thiên Chúa vinh quang, giết chết một Đấng là Thiên Chúa vĩnh cửu, thì lẽ nào nó lại không thể nghiền nát một con người tầm thường, mỏng manh như con sao? Ta cấm con phạm tội, không phải vì Ta ghen tị với hạnh phúc của con, nếu ghen tị, Ta đã chẳng chịu thê thảm thế này vì con, nhưng Ta muốn con tránh xa tội lỗi, vì không muốn con trải qua điều mà Ta đang chịu thay con”. Nhưng liệu tiếng gào bằng cả mạng sống đó, có đụng chạm được đến tâm hồn của nhân loại, một nhân loại đang cuồng loạn trong nỗ lực gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình, để thỏa sức chạy theo những tiếng kêu mời đầy chết chóc?
Tiếp đến, và cũng là khía cạnh quan trọng nhất của Thập giá Đức Giêsu, đó là nơi Thập giá, dung mạo tình yêu của Thiên Chúa được tỏa sáng một cách huy hoàng và rực rỡ nhất. Giữa một đám đông, đại diện cho hình ảnh của cả nhân loại, đang đằm mình ngập ngụa trong tiếng gào thét đầy thù hận, tiếng hò reo sung sướng vì đã đóng đinh, giết chết được Thiên Chúa trên Thập giá, thì Thập giá vẫn đứng đó, sừng sững giữa trời, như một chiếc thang nối liền trời và đất, như một cánh tay mở ra đến vô tận để ôm tất cả cái nhân loại bạc bẽo ấy vào lòng. Chẳng một lời lẽ căm thù, nguyền rủa, không một chút ân hận chua chát, đắng cay vì đã trót yêu quá nhiều, chỉ có Đấng dù trái tim bị đâm nát vì sự vô ơn đến tàn nhẫn, vẫn dạt dào tình yêu thương, tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Ở đời, người ta thường yêu vì vẻ xinh đẹp, dễ thương của kẻ được yêu, yêu vì niềm vui thích ngọt ngào mà tình yêu mang đến. Người ta cũng thường rỉ tai nhau rằng trong tình yêu, người nào yêu thương nhiều hơn, thì người ấy chịu nhiều thiệt thòi và tổn thương hơn; và họ lấy lý do đó biện minh cho việc chỉ he hé cánh cửa con tim, để có thể lập tức khép vào khi bị đe dọa, mà không phải trả cái giá quá đắt. Tình yêu nhân loại nhiều khi là thế, nó thường dè chừng với những toan tính “tôi sẽ được gì, mất gì?”, và mở ra một đường lui cho bản thân phòng khi “tình ta đôi ngả”. Thái độ đó cũng đáng để cảm thông, vì giữa cái thế gian điên đảo này, đâu thiếu những kẻ tráo trở, nhân danh tình yêu để gieo rắc đau khổ. Đó là minh chứng cho một nhân loại bối rối trước tình yêu: vừa muốn yêu, lại vừa sợ yêu.
Còn tình yêu nơi Thập giá là một tình yêu hoàn toàn khác, bao trùm hơn nhưng cũng sâu sắc và mãnh liệt hơn. Bao trùm hơn ở chỗ tình yêu đó không loại trừ những kẻ không xứng đáng: nhân loại vẫn được yêu, ngay cả khi họ xấu xa, tồi tệ nhất. Sâu sắc và mãnh liệt hơn bởi vì tình yêu ấy không đi kèm với nhu cầu phải bảo vệ mình khỏi những thương tổn. Trái tim đó sẵn sàng để cho mình bị đâm toạc, rách bươm, chảy đến giọt máu và nước cuối cùng. Đây là sự diễn tả hoàn hảo nhất về một tình yêu vét cạn, yêu đến tận cùng, cho đi bằng hết chẳng giữ lại gì, chẳng bận tâm xem kẻ được nhận có xứng đáng hay không. Và đó chính là khía cạnh đẹp nhất, mở toang cánh cửa hạnh phúc cứu độ cho con người: dù con người có tội lỗi đến đâu đi nữa, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy ở họ sự đáng quý đến độ Ngài sẵn sàng đổ máu châu báu của mình ra để cứu họ.
Nhưng khi nói như vậy, chúng ta đừng lầm tưởng rằng vì đã có một tình yêu lớn lao dường ấy dành cho mình, nên chẳng cần bản thân bất cứ một sự cộng tác nào, như thể đã có một thứ sức mạnh ghê gớm “bảo kê” thì có thể tha hồ làm bậy. Một tình yêu đúng nghĩa không dung dưỡng, không nhắm mắt làm ngơ trước cái xấu, nhưng mở ra cơ hội, trợ giúp để người mình yêu tốt đẹp hơn mỗi ngày. Tình yêu đó cũng không nhân danh điều tốt đẹp để tước đoạt đi sự tự do, nhưng chỉ làm sáng tỏ trắng đen, tốt xấu và sau đó, trao quyền tự quyết cho người mình yêu. Bởi đó, tình yêu của Thiên Chúa không miễn trừ đòi hỏi về sự công chính nơi con người, thậm chí, có thể nói sự công chính đó là hoa trái, là hệ quả tất yếu khi một con người đón nhận được tình yêu của Ngài. Nói thế cũng có nghĩa là việc một người không “thèm” nên công chính, là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy không có tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn họ. Sự thiếu vắng đó không phải là do Thiên Chúa ngừng yêu thương họ, nhưng là vì họ đã đóng im ỉm cánh cửa tâm hồn, không muốn để cho tình yêu ấy đi vào cuộc đời của mình. Thiên Chúa không thể dùng sức mạnh để cưỡng ép con người nên công chính, điều đó đi ngược lại với bản chất của Ngài, nên một khi con người đã dứt khoát thốt ra từ “không muốn”, Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Đúng như ý tưởng của thánh Augustinô: “Ngài sinh con ra không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu độ con, Ngài cần con cộng tác”
Nơi Thập giá Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thi thố tất cả sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài để cứu chuộc nhân loại, bởi đó, nếu người nào vẫn cố chấp đòi Thiên Chúa phải làm nhiều hơn nữa mới để Ngài đụng chạm đến cuộc đời mình, thì kẻ ấy chỉ đang tự hủy hoại mình, và lao về phía nấm mồ của sự chết. Đối diện với Thập giá, nếu ai không cảm thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, thì trái tim người ấy đã hoàn toàn khô khốc và tê liệt trước Thiên Chúa, đến độ ngay cả khi Ngài có làm thêm điều gì cho họ đi chăng nữa, họ cũng chẳng cảm thấy được gì. Và nếu đã chẳng cảm được tình yêu cứu độ của Thiên Chúa nơi Thập giá, thì họ cũng không chấp nhận để cho Đức Giêsu gánh lấy tội của mình. Khi đó, người ấy sẽ phải tự mình “trả” cái món nợ của tội lỗi. Nhưng làm sao một kẻ nghèo nàn, rách nát thảm thương, đến độ cả mạng sống cũng là món nợ với Thiên Chúa, lại có thể ngạo mạn đòi “tự mình trả hết đồng xu cuối cùng” để có thể nghênh ngang bước ra khỏi ngục tối?
Cũng như dân Israel khi nhìn lên con rắn, họ thấy được kết cục bi thảm của việc phản loạn chống lại Thiên Chúa, để từ đó giục lòng họ ăn năn, hối cải mà được sống; thì chúng ta cũng được mời gọi khi chiêm ngắm Thập giá Đức Giêsu, hãy biết ý thức về hậu quả của những tội lỗi của mình, nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, nhờ đó cũng sẽ được cứu sống nhờ đụng chạm được đến Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh.