Rô-sa-li-ma - Một vị thánh đáng cậy tin
Thứ sáu - 22/08/2025 19:32
36
Nơi Ro-sa thành Li-ma, chúng ta thấy một vị thánh đáng kinh ngạc, một người con yêu dấu của Chúa. Tuy nhiên, xét từ góc độ bề ngoài, cuộc đời và những bài học của Ngài xem ra rất kỳ quặc, cực đoan và xa lạ đối với chúng ta ngày nay. Mặc dù được biết đến với nhan sắc trổi vượt và trái tim trẻ thơ, nhưng có lẽ điều mà người ta đề cập đến nhiều nhất về ngài chính là sự tự chịu đựng đau khổ và hy sinh bản thân mà khó vị thánh nào vượt qua được, cùng với đó là cái chết nơi trần thế ở tuổi 31.
Liệu chúng ta, những người có lẽ đã lớn tuổi hơn Ro-sa rất nhiều và sống sau Ngài nhiều thế kỷ có thể thủ đắc được bài học nào từ những cây thánh giá rất nặng mà Thánh nhân đã chọn mang? Liệu cuộc đời của Thánh Ro-sa Li-ma còn ý nghĩa gì cho đến ngày nay chăng?
Theo tôi là có, bạn có thể tin tưởng vào điều đó.
Hãy cùng tìm hiểu một chút về cuộc đời của Thánh nữ khi chúng ta suy ngẫm về những cách thế thánh thiện nhất mà người con yêu dấu của Thánh Đa-Minh đã sống cuộc đời chiêm niệm, tông đồ và bác ái với tư cách là một nhà tư tưởng, người thi hành và là người yêu mến Chúa Kitô.
Nhà tư tưởng: Bông hồng huyền nhiệm của thành Li-ma.
Thánh Ro-sa Li-ma mặc dù có được học để biết đọc, nhưng Ngài không phải là một học giả và ít được học hành bài bản. Trong số những cuốn sách mà Ro-sa yêu thích, có cuốn tiểu sử của Thánh Ca-ta-ri-na thành Si-ê-na và những cuốn sách chỉ dẫn tâm linh của một tu sĩ dòng Đa Minh đáng kính khác là cha Lu-i thành Gra-na-da. Thực tế, sách cầu nguyện và suy niệm của cha Lu-i đã trở thành cuốn sách mà Ro-sa yêu thích, vì chính việc cầu nguyện và suy niệm ấy đã trở thành những việc làm mà Ro-sa mến mộ, kiến tạo nên bản chất và định hình nên ngoại biên của mọi khía cạnh nơi cuộc đời ngắn ngủi của Ro-sa.
Đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của Ro-sa khởi đi từ sớm, ngay từ thuở ấu thơ khi Rosa thấy mình được thu hút bởi tấm hình Chúa Kitô đội mão gai. Ro-sa cũng có lòng sùng kính đặc biệt đối với Chúa Giê-su Hài Đồng và Đức Mẹ. Các vị thánh mỗi khi bị thu hút vào việc cầu nguyện và chiêm niệm, họ thường tìm cách làm theo lời chỉ dẫn của Chúa Kitô là “hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 6). Các vị thánh tìm kiếm sự hiệp thông với Chúa Cha, không phải nơi ánh nhìn và lời khen ngợi của tha nhân. Khi hoàn cảnh cho phép, một số người đi vào sa mạc, lên núi hoặc vào trong một thung lũng rậm rạp nào đó. Số còn lại, như Thánh Ca-ta-ri-na và Ro-sa chẳng hạn, tìm kiếm nơi cầu nguyện thánh thiêng của mình, chính xác như Chúa Kitô đã dạy, từ nơi kín đáo của căn phòng.
Trong chốn cô tịch, Ro-sa đọc sách về cầu nguyện chiêm niệm, đặc biệt, như đã đề cập, sách của Đấng Đáng Kính Lu-i thành Gra-na-da. Ngài sốt sắng lần hạt Mân Côi và dùng nhiều hình thức cầu nguyện bằng lời nói và tâm trí khác. Ro-sa dành hàng giờ để suy niệm về vô số ân sủng mà mình đã nhận được nhờ Lòng Thương xót của Thiên Chúa.
Đức Kitô đã phán về những ai cầu nguyện với Chúa Cha trong nơi kín đáo rằng: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6,6), và Thánh Ro-sa đã được ban thưởng bằng nhiều thị kiến xuất thần trong đó bao gồm cuộc kết hôn thiêng liêng với Chúa Ki-tô giống như Thánh Ca-ta-ri-na.
Người thi hành: Hoa Hồng Vác Thập Giá
Ro-sa không phải là một người thi hành theo nghĩa vĩ đại như vị Thánh lập Dòng là Thánh Đa Minh, hay như Thánh Ca-ta-ri-na, người có ảnh hưởng đến các giáo hoàng, dù cho Ro-sa cũng được vị Tổng giám mục thánh thiện của mình ngưỡng mộ. Hầu hết những gì Ro-sa đã làm đều được thực hiện ở phạm vi nhỏ hơn nhưng đầy gian khổ. Ngài biết rõ Chúa Kitô đã phán với những ai muốn theo Ngài rằng sẽ phải từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hàng ngày. (Mt 16,24; Lc 9,23). Đây là những lời khuyên thánh thiện mà Ro-sa đã lắng nghe, nhưng ít ai trước đó đã thi hành và cũng không mấy người sau Ngài thực thi.
Thánh Tô-ma A-qui-nô đã viết rằng các nhân đức cốt lõi như tiết độ, can đảm, công bằng và khôn ngoan có liên hệ đến cuộc sống hoạt động, nhưng cũng chuẩn bị cho chúng ta kiềm chế đam mê và tập trung trí tuệ cùng ý chí để có thể vươn lên đến đỉnh cao của sự chiêm nghiệm một cách thanh thản. Thánh Ro-sa đã thể hiện những nhân đức trụ đó ở mức độ hùng anh nhất, và có lẽ Ngài được biết đến nhiều nhất với sự tiết độ và can đảm phi thường, được thể hiện qua nhiều cách thức quyết tâm ở mức độ cao và khó khăn nhất mà Ngài đã nghĩ ra để vác thập giá của Chúa Kitô qua các hành động từ bỏ và tự phạt xác hàng ngày (và hàng đêm) của chính mình.
Việc kiềm chế ham muốn nhục dục của chúng ta đối với những thú vui thể xác thì ít ai có thể kiềm chế ngặt hơn Ro-sa thời còn trẻ. Về các giác quan của vị giác, Ro-sa đã không ăn thịt từ khi còn nhỏ, cũng như các loại trái cây mọng nước của Pe-ru. Ro-sa thường nhịn nước lạnh, và thậm chí không uống nước, và sống bằng những thứ như vỏ bánh mì và các loại thảo mộc đắng đơn giản. Về những thú vui xác thịt, mặc dù Ro-sa đôi khi bị dày vò bởi những hình ảnh cám dỗ hướng đến sự phù phiếm và những thú vui xác thịt, nhưng nhờ ân sủng của Chúa, Ngài không bao giờ chấp nhận những tội lỗi như vậy và kiên trì giữ lời khấn khiết tịnh và trong sạch.
Lòng can đảm khơi dậy sức mạnh “nóng nảy” của chúng ta, nhờ đó chúng ta ghét bỏ những điều xấu xa và khơi dậy lòng can đảm để vượt qua những trở ngại ấy nhằm đạt được những điều tốt đẹp dẫu có khó khăn, ngay cả khi những trở ngại đó đe dọa đến tính mạng và thể xác của. Trong tất cả các đức tính ở đây, ngoại trừ tình tương thân tương ái, can đảm có lẽ là đức tính mạnh mẽ nhất trong tâm hồn vững chắc của Bông Hồng mỏng manh này. Ro-sa ghét bất kỳ ý nghĩ nào về ma quỷ, bất kỳ cảm giác nào, bất kỳ suy nghĩ hay ý định xấu xa nào có thể khuấy động ý chí của Ro-sa chống lại ý muốn của Chúa, và trong cuộc chiến của bản thân chống lại bất kỳ điều xấu xa hay tội lỗi nào có thể xảy ra, Ro-sa đã nghĩ ra những cách tự phạt xác có thể làm rối bời tâm trí.
Xin trưng dẫn vài ví dụ về những khổ hạnh và hy sinh tự nguyện của Thánh Ro-sa, Ngài đã chiến đấu chống lại cơn buồn ngủ, thứ sẽ tước mất thời gian cầu nguyện đến nỗi mà Ngài tự thiết kế cho mình một chiếc giường, một chiếc hộp gỗ nhỏ với một tấm nệm nhồi đầy những mảnh gỗ cứng, xù xì và những mảnh vụn gốm vỡ để ngủ vài tiếng đồng hồ khi quá mệt mỏi. Thỉnh thoảng trong vườn, Ro-sa thực sự vác một cây thánh giá gỗ nặng, bắt chước Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô.
Những khổ hạnh của Thánh Ro-sa có thể rất kỳ lạ với chúng ta ngày nay, nhưng chúng vẫn có thể chứa đựng những bài học quý giá. Trong “cách cầu nguyện thứ ba” của Thánh Đa Minh, ngài đã dùng kỷ luật tự đánh mình bằng một sợi xích sắt trong khi lặp lại lời Kinh Thánh Vul-ga-ta La-tin: “Kỷ luật của Chúa đã dẫn con tiến thẳng đích đến”.
Ngày nay, một số người có thể tự hỏi liệu những khổ hạnh của Ro-sa có phải là dấu hiệu của sự tỉ mẩn hay sự bất ổn về tinh thần, và điều này cũng được xem xét vào thời của Ngài. Do cách sống sám hối khác thường của mình, Ro-sa đã từng bị một số nhà thần học và một bác sĩ y khoa của Tòa Tra[1] chất vấn, nhưng những người uyên bác này kết luận rằng cuộc đời của bà được Chúa ban ơn một cách khác thường.
Mặc dù chúng ta có thể không được kêu gọi thực hiện những hành động cực đoan như vậy để chế ngự ý chí của mình, nhưng liệu chúng ta có thể học được điều gì đó từ chúng không? Liệu những khổ chế của Rô-sa có thể truyền cảm hứng cho chúng ta để nuông chiều cơ thể mình ít hơn một chút, để chế ngự những ham muốn nhục dục của mình nhiều hơn một chút, để suy nghĩ của chúng ta có thể vươn tới những điều cao cả hơn không? Ngay cả những triết gia ngoại giáo đáng kính cũng nhận thấy cần phải tự kỷ luật để có được đức hạnh. Ví dụ, E-pic-te-tus, một triếtgia thuộc trường phái Khắc kỷ đã khuyến khích những người yêu thích sự khôn ngoan rèn luyện cơ thể của họ, chứ không phải bằng cách “ôm tượng”, một hành động mà một số người theo chủ nghĩa khuyển nho[2] sẽ thực hiện khi để ngực trần trong cái lạnh mùa đông - tất nhiên là những bức tượng công cộng, để người khác có thể nhìn thấy chúng. Theo một lời khuyên tiên tri, cách nào đó về một trong những kỷ luật nhỏ của Thánh Rose khoảng một nghìn bốn trăm năm sau đó, E-pic-te-tus đã đề xuất thay vào đó là lấp đầy miệng bằng nước khi khát, nhưng sau đó nhổ ra - khi không ai nhìn thấy. (Dĩ nhiên, Chúa Cha biết những gì chúng ta làm trong bí mật.)
Công bằng có nghĩa là trả cho mỗi người những gì họ đáng được hưởng, và theo nghĩa này, Ro-sa đã luôn thực hiện, thậm chí còn hơn thế nữa. Trong những năm cuối đời, Ro-sa đã thuyết phục mẹ cho phép mình chăm sóc người nghèo, người vô gia cư, người già và người bệnh nơi những căn phòng trống trong nhà họ, và hành động của Ro-sa được coi là nền tảng của công tác xã hội ở Pe-ru, cùng với hành động của Thánh Mát-ti-nô Po-rét.
Khôn ngoan là sự nhìn nhận thực tiễn, biết tìm ra cách thế đúng đắn để hoàn thành công việc, và đức tính này cũng tỏa sáng nơi Ro-sa. Chúng ta thấy sự thận trọng của Ngài qua cách Ro-sa luôn kết hợp những việc làm của đời sống hoạt động trong khi đắm mình vào cuộc sống cô tịch, cầu nguyện và chiêm nghiệm, khi Ngài cầu nguyện trong khi lau dọn, thêu thùa, làm vườn, cắm hoa và bán hoa. Chúng ta thấy điều đó vào cuối đời, khi sức khỏe suy yếu và chìm đắm trong chiêm nghiệm, Rosa đã thực hiện những sắp xếp thực tế đó để chăm sóc nhu cầu thể chất và tinh thần của những người cần chúng nhất.
Người Yêu: Ách của Chúa thì nhẹ nhàng
Ro-sa không bao giờ quên vác thập giá của mình, nhưng thánh nhân không bao giờ quên rằng Đấng đã kêu gọi chúng ta vác thập giá và theo Ngài cũng đã tuyên bố rằng nếu chúng ta đến với Ngài, Ngài sẽ cho tâm hồn chúng ta được nghỉ ngơi, “Vì ách Ta êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Theo lời mời của Thánh Bê-na-đô (1090–1153) và Thánh Aelred thành Rievaulx (1110–1167), một tu sĩ dòng Xi-tô, đã viết một cuốn sách có tên là Gương Bác Ái, trong đó ngài đã diễn tả rõ ràng bằng những lời lẽ hùng hồn rằng “Ách này không áp bức nhưng hợp nhất; gánh nặng này có đôi cánh, không phải sức nặng. Ách này là bác ái. Gánh nặng này là tình yêu thương anh em.”
Mặc dù người nữ tu Đa Minh Peru thế kỷ XVI của chúng ta khó có thể đã đọc các tác phẩm của vị tu sĩ Xitô người Anh thế kỷ XII này, nhưng Ro-sa đã phản ánh rõ ràng những bài học về bác ái đó trong tấm gương trái tim mình.
Những việc đền tội và nhiều nhân đức của Ro-sa chỉ là phương tiện để đạt đến mục đích của đức ái, yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực, và yêu thương tha nhân như chính mình.
Tình yêu vĩ đại này dành cho Thiên Chúa được thể hiện rõ nét nhất trong lòng sùng kính Bí tích Thánh Thể của Ro-sa. Cô cố gắng rước lễ hàng ngày, và khi rước Chúa, cô sẽ ở trong trạng thái xuất thần cầu nguyện hàng giờ.
Thánh Ro-sa thành Li-ma biết rằng Thiên Chúa ban cho mỗi chúng ta những phương tiện để thể hiện và phát triển tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Ro-sa đã chu cấp cho những nhu cầu vật chất của người nghèo, người bệnh, trẻ mồ côi và người già, nhưng giống như người cha tinh thần của mình là Thánh Đa Minh, người con của Chúa này cũng rất khao khát những linh hồn để đưa về với Chúa Cha. Nhiều công việc bác ái về thể xác của Ro-sa luôn đi kèm với vô số công việc bác ái về tinh thần.
Lòng nhiệt thành của Ro-sa với Chúa và ước muốn mang nhiều linh hồn về với Ngài lớn lao đến nỗi thánh nhân thường xuyên cầu nguyện cho sự hoán cải của người bản xứ da đỏ sống trên núi, và Ro-sa đã làm hết sức mình để khích lệ những người sẽ đến rao giảng cho họ. Thực tế, có lần Ro-sa khích lệ một nhà truyền giáo còn dè dặt bằng cách hứa sẽ chuyển trao cho vị ấy một nửa số công đức tâm linh mà Ro-sa đã tích lũy được nếu ông chịu ra đi truyền giáo cho họ. Tình yêu của Ro-sa không phân biệt giai cấp, sắc tộc hay quốc tịch. Bà quan tâm đến cả người giàu lẫn người nghèo, đến người Tây Ban Nha, người da đỏ và người châu Phi, và Ro-sa nói về ước mơ truyền giáo đến Nhật Bản, chào đón cơ hội được tử đạo vì Chúa Kitô ở đó.
Những Ngày Cuối Cùng của Rose trên Trái Đất và Những Năm Đầu Tiên trên Thiên Đàng
Vào đêm 31 tháng 7, ở tuổi ba mươi mốt, những ngày cuối cùng của căn bệnh nan y Ro-sa bắt đầu khi Ngài bị sốt và nhiều loại bệnh tật hành hạ, bao gồm viêm phổi, hen suyễn, thấp khớp và gút. Ngài đau đớn và nhức nhối ở hầu hết mọi cơ, xương và nội tạng, nhưng vẫn giữ được sự thanh thản và không hề than phiền. Vào ngày 23 tháng 8, đêm trước lễ thánh tông đồ Ba-tô-lô-mê-ô, Ro-sa đã cầu xin gia đình và bạn bè xung quanh chúc lành. Gần nửa đêm, Ro-sa nói rằng mình nghe thấy một tiếng động bí ẩn báo hiệu Đức Phu Quân Thiêng Liêng của Ro-sa đang đến gặp. Ro-sa nhờ anh trai bỏ tấm nệm dưới và chiếc gối ra khỏi đầu, để Ro-sa nên giống như Chúa Kitô, có thể chết trên những mảnh gỗ. Ro-sa đã hai lần kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, xin ở cùng con!” và rồi linh hồn Ro-sa đã về với Ngài. Ro-sa qua đời trên trái đất và sống lại trên thiên đàng vào ngày 24 tháng 8 năm 1617.
Tình yêu thơm ngát tỏa ra từ sự đau khổ của Ro-sa đã được công nhận trên khắp thành Li-ma và nước Pe-ru. Đám tang của Ro-sa được tổ chức long trọng và có sự tham dự của người dân và tất cả các quan chức chính quyền thành phố. Chẳng bao lâu sau, tiến trình phong thánh cho Ro-sa đã được tiến hành, hoàn tất với hơn 180 lời khai về sự thánh thiện của Ro-sa, và hiệu quả chữa lành kỳ diệu nơi áo quần, ảnh của Ro-sa, và thậm chí cả đất nơi Ro-sa được chôn cất. Năm mươi năm sau khi Ro-sa qua đời, vào năm 1667, bà được Đức Giáo hoàng Clê-men-tê IX phong chân phước, và bốn năm sau, vào năm 1671, Ro-sa được người kế nhiệm là Đức Giáo hoàng Clê-men-tê X phong thánh. Ro-sa cũng được tuyên bố là bổn mạng của Châu Mỹ La-tinh và Phi Luật Tân.
Xin được kết thúc bằng một ghi chú về nhìn nhận cá nhân, có vẻ như mẹ của Ro-sa là bà Ma-ri-a, chưa bao giờ thực sự hiểu con gái mình. Ma-ri-a yêu Ro-sa của mình nhưng thường gây trở ngại cho con gái, vì con đường mà bà dành cho Ro-sa không phải là con đường mà Chúa Ki-tô đã trải qua. Tuy nhiên, Ro-sa vẫn yêu mẹ mình mặc cho những khó khăn mà bà đặt lên vai Ro-sa, vì Ro-sa coi mọi thử thách là món quà từ Chúa để thử thách tình yêu của Ro-sa dành cho Ngài và để nuôi dưỡng sự trưởng thành về nhân đức của Ro-sa. Ro-sa đã nói lời tiên tri khi còn sống rằng một Tu viện Đa Minh của Thánh Ca-ta-ri-na thành Si-ê-na sẽ được hoàn thành ở Li-ma và mẹ bà sẽ tham gia vào đó. Tu viện đã được hoàn thành, và sau khi chồng của bà Ma-ri-a qua đời, bà đã tuyên khấn, ngày càng trân trọng tiếng gọi đặc biệt của Ro-sa và trở thành một người con của Chúa Kitô và một người nữ tỳ của Chúa trong Dòng Đa Minh, giống như con gái của mình.
[1] Tòa Tra (Inquisition) là một tòa án của Giáo hội được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX thiết lập vào năm 1230 để loại trừ tận gốc lạc giáo. Tòa Thẩm Tra khét tiếng của Tây Ban Gia được Đức Giáo Hoàng Sixtus IV thành lập theo thỉnh cầu của Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella của nước Tây Ban Nha vào năm 1478. Đức Giáo Hoàng Phaolô III đã lập Thánh Bộ Thẩm Tra Hoàn Vũ (được gọi là Tòa Thẩm Tra Rôma) vào năm 1542, sau này đã trở thành Bộ Thánh Vụ vào năm 1908 và thành Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin vào năm 1965.
Lạc giáo là giáo huấn sai lạc có khả năng đe dọa đến chính nền móng của Giáo hội. Sai lạc về giáo thuyết là đưa ra những luận đề đối nghịch với một tôn giáo vốn có nền tảng là việc giảng dạy chân lý được mặc khải. Các thành viên của Tòa Thẩm Tra Rôma bao gồm các tu sĩ Dòng Phanxicô hoặc Dòng Đa Minh. Họ đi từ làng này sang làng khác và thiết lập các tòa án để mời gọi người dân tố cáo lạc giáo. Thông thường, người bị tố cáo sẽ có một tháng để từ bỏ giáo thuyết sai lạc của mình. Nếu họ không từ bỏ, một cuộc xét xử công khai sẽ được tổ chức; và nếu bị phán xét có tội mà vẫn không từ bỏ những giảng dạy sai lạc, họ sẽ bị giao nộp cho cơ quan dân sự, thường có nghĩa là chịu án tử.
Trong các xã hội nơi mà Giáo hội và quốc gia là một, lạc giáo ảnh hưởng không chỉ đến Giáo hội mà còn đến lợi ích của xã hội. Vì thế, lạc giáo trở thành một tội ác đối với quốc gia cũng như đối với Giáo hội. Tòa Thẩm Tra thường khiến hầu hết mọi người liên tưởng đến một nơi để tra tấn, và thật đáng tiếc, điều này không xa với sự thật là mấy. Tòa Thẩm Tra đã tồn tại trong một giai đoạn mà người dân có tính bạo lực cao. Và việc xã hội trừng phạt theo kiểu mắt đền mắt và răng đền răng là chuyện bình thường. Nói cách khác, nếu một người phạm tội ăn trộm sẽ phải bị chặt tay. Án treo cổ công khai được xem như những sự kiện để người dân tham dự, rất giống với những cuộc sát tế người ở Đấu Trường La mã, nơi có vô số Kitô hữu đã làm mồi cho sư tử. Xã hội trung cổ chỉ mới thoát khỏi thời kỳ man di một vài thế hệ thôi. Thế nên, không có gì lạ khi xã hội dân sự sử dụng sự tra tấn như phương tiện để thanh tẩy tội phạm. Trong một sắc lệnh, Đức Giáo Hoàng Innocent IV đã cho phép sử dụng việc tra tấn như một giải pháp cuối cùng trong những trường hợp rất nghiêm trọng để đạp tan sự ngang bướng của những kẻ lạc giáo và buộc họ phải thú nhận tội lỗi. Sự thú nhận đầy đau đớn chỉ kết thúc sau khi một tòa án của Giáo hội đã có đủ bằng chứng chứng minh kẻ bị tố cáo thực sự phạm tội. Nếu họ nhận tội, họ sẽ chịu hình phạt nhẹ nhất. Nếu họ cố chấp không nhận tội dù đã có đủ lời khai của nhân chứng và chứng cứ xác thực, thì họ sẽ bị tra tấn để nói ra sự thật.
Ngày nay, chúng ta xem điều này là tàn ác và vô nhân tính. Thế nhưng, thời Trung cổ quan niệm rằng phần rỗi các linh hồn đang trong tình cảnh nguy hiểm. Nếu những kẻ lạc giáo chết mà không hoán cải, họ sẽ bị chúc dữ đời đời. Nếu thú nhận và hoán cải, họ sẽ được tha tội và cứu vớt được linh hồn mình khỏi sa hỏa ngục. Vì thế, nên cứu vớt linh hồn để họ được sống đời đời hơn là đánh mất linh hồn bất tử chỉ để cứu lấy sự sống mau qua này – đó là quan niệm của thời Trung cổ. Do đó, việc tra tấn được xem như một phương dược cuối cùng để giúp kẻ có tội thú nhận và nhờ đó cứu được linh hồn họ. Tất nhiên, phương thế này thời ấy cũng được sử dụng vì lợi ích chính trị. Thánh Joan Arc, người đã bị thiêu sống vì bị cho là một kẻ lạc giáo và là phù thủy, đã chịu đau khổ vì những lời cáo gian của kẻ thù. Giáo hội Công giáo không bao giờ sử dụng án tử hình, cũng không hành quyết những người lạc giáo hoặc phù thủy trong Tòa Thẩm Tra. Phiên tòa xét xử là của Giáo hội và dưới sự điều hành của các dòng tu, nhưng việc tử hình và hầu hết các cuộc tra tấn lại được thự hiện bởi các cơ quan dân sự dưới quyền của Hoàng đế, của vua, hoặc của hoàng thân, công tước, v.v..
Sau cuộc Cải Cách Tin Lành, các quốc gia trước kia đã chịu đau khổ vì các Tòa Thẩm Tra đã thành lập các Tòa Thẩm Tra theo hình thức riêng của họ, và đã hoạt động giống như thế nhân danh Thiên Chúa, tôn giáo và quốc gia. Vô số tín hữu Công giáo bỏ mạng vì không chịu cải đạo sang Tin Lành. Mary, Nữ hoàng xứ Scots, là một ví dụ tiêu biểu. Nữ hoàng Elizabeth I của Anh quốc đã giết nhiều tín hữu Công giáo còn hơn người chị cùng cha khác mẹ của bà, Nữ hoàng Mary I, đã làm đối với các tín hữu Tin Lành. Thậm chí trong Thế Giới Mới, các phiên tòa xét xử phù thủy Salem được xem như một kiểu Tòa Thẩm Tra của Tin Lành. Việc tra tấn và đe dọa xử tử được sử dụng để đạt được sự thú tội và hoán cải. Thông thường, hình phạt cho việc từ chối thú tội là bị thiêu sống.
Sau Công đồng Trentô cùng với những cải cách sâu rộng, Tòa Thẩm Tra đã được thay đổi tận gốc. Tòa đã được các Hồng y đảm trách và trở thành tòa án phúc thẩm sau cùng. Sự tra tấn đã bị loại bỏ, các hình phạt bây giờ là các vạ và rút phép thông công.
Trong thế kỷ XX, tên của Tòa Thẩm Tra đã được đổi thành Bộ Thánh Vụ, có mục đích chính yếu là kiểm tra sự tinh tuyền của giáo thuyết. Sau Công đồng Vaticanô II vào năm 1965, tên gọi cuối cùng được đổi thành Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin với mục đích chính là bảo toàn giáo huấn đúng đắn của đức tin và luân lý.
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D.,
The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question,
(Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007).
[2] Chủ nghĩa khuyển nho (tiếng Hy Lạp cổ: κυνισμός) là học thuyết triết học Hy Lạp cổ, chủ trương sống phải giữ cái đức, thuận hợp tự nhiên. Con người là sinh vật có lý trí, có thể đạt được sung sướng bằng cách rèn luyện thân tâm, sống theo bản tính sẵn có, và từ bỏ ham muốn của cải, quyền lực, tiếng tăm. Một người Khuyển nho sống đơn giản, không có tài sản gì.
Antisthenis là nhà triết học đầu tiên đề xướng chủ nghĩa, từng theo học Socrates vào cuối thế kỷ 5 TCN. Diogenes theo sau Antisthenis và thực hiện chủ nghĩa khuyển nho tới cùng: ông sống trong một chiếc bình gốm trên đường phố Athens. Tục xem Diogenes là nhà triết học khuyển nho điển hình. Vị Khuyển nho Kratis cho đi khối tài sản lớn để sống nghèo khổ ở Athens.
Bắt đầu từ thế kỷ 3 TCN, chủ nghĩa khuyển nho từ từ suy, rồi thịnh trở lại vào thế kỷ 1 ở Đế quốc La Mã. Tại các thành phố khắp trong nước, có thể thấy người Khuyển nho ăn xin và rao giảng ý tưởng. Về sau, Kitô giáo mượn dùng tư tưởng khổ hạnh và các thủ pháp tu từ của Phái khuyển nho. Thế kỷ 19, các nhà nghiên cứu đặt nặng khía cạnh tiêu cực của triết lí khuyển nho, dẫn tới tiếng xấu hiện nay của chủ nghĩa là khuynh hướng nghi ngờ lòng chân thành của người khác.
Tác giả: Chuyển ngữ: Đức Hữu
Nguồn tin: catholicexchange.com