GIÁO PHẬN BÙI CHU

https://gpbuichu.org


Cuộc sống đích thực bao hàm gặp gỡ đối thoại

Đối thoại trở thành hạn từ phổ biến trong thế giới ngày nay: Đa văn hóa, đa sắc tộc và tôn giáo. Sâu xa hơn, chính sự khác biệt ngày càng lớn nơi ý thức hệ và suy tư của mỗi cá nhân, đòi hỏi tìm kiếm giải pháp, đường lối ứng xử để giải quyết những xung đột khác nhau trong cuộc sống, không phải bằng vũ lực hay thể lý mà bằng đối thoại.
Cuộc sống đích thực bao hàm gặp gỡ đối thoại
CUỘC SỐNG ĐÍCH THỰC BAO HÀM VIỆC GẶP GỠ ĐỐI THOẠI
DỰA THEO TƯ TƯỞNG CỦA MARTIN BUBER

vector illustration flat style businessmen 260nw 1120536416Thuật ngữ đối thoại bắt nguồn từ Tiếng Hy Lạp διάλογος (đối thoại, hội thoại); gốc từ διά (dia: qua) và λόγος (logo: lời nói, lý do).

Đối thoại trở thành hạn từ phổ biến trong thế giới ngày nay: Đa văn hóa, đa sắc tộc và tôn giáo. Sâu xa hơn, chính sự khác biệt ngày càng lớn nơi ý thức hệ và suy tư của mỗi cá nhân, đòi hỏi tìm kiếm giải pháp, đường lối ứng xử để giải quyết những xung đột khác nhau trong cuộc sống, không phải bằng vũ lực hay thể lý mà bằng đối thoại.

Để hiểu về đối thoại, có thể dựa vào tư tưởng của Martin Buber (1878 - 1965), một nhà triết học người Israel và người Áo nổi tiếng với triết lý đối thoại, một dạng của chủ nghĩa hiện sinh tập trung vào sự phân biệt giữa mối quan hệ I-Thou và mối quan hệ I-It.

Trong tác phẩm nổi tiếng Ich und Du (Tôi và Bạn, 1923), Buber cho rằng con người không chỉ là bản thể riêng biệt mà trên hết là mạng lưới của những tương quan. Con người về bản chất là đối thoại, và không thể hiện hữu thực nếu không giao tiếp, mở ra với nhân loại, tạo vật và Đấng Sáng Tạo. Phép đo mức độ tương hỗ có liên quan đến các cấp độ hiện hữu: Nó gần như bằng không ở cấp độ vô cơ và thực vật, hiếm ở cấp độ động vật, nhưng luôn có thể và thực tế giữa con người với nhau. Tôi trở nên người thành toàn qua tương giao với anh; khi anh trở thành tôi, tôi gọi Anh.

Martin Buber nhấn mạnh về sự tồn tại một xu hướng kép đối với thế giới: Mối quan hệ I-You và mối quan hệ I-it: Tôi-Bạn và Tôi-Nó. Cả Tôi và Bạn đều không sống tách biệt, nhưng chúng ta tồn tại trong bối cảnh Tôi-Bạn, trước sự hiện diện không tránh khỏi nhau. Giữa con người và con người, mối quan hệ Tôi-Bạn diễn tả khi cả hai bên cùng tham gia vào sự trọn vẹn của con người họ - như trong một tình yêu tuyệt vời vào thời điểm cao nhất của nó hoặc trong một tình bạn lý tưởng. Mối quan hệ Tôi-Nó diễn tả khi chúng ta tham gia vào các mối quan hệ không phải với sự trọn vẹn của con người chúng ta mà chỉ với một phần nhỏ, trong đó đối tượng khác được thu gọn lại thành đối tượng duy nhất của suy nghĩ hoặc trong các mối quan hệ xã hội (ví dụ, ông chủ và người lao động), trong đó con người phần lớn được coi là công cụ hoặc tiện nghi. Hình thức quan hệ này cho phép tạo ra khoa học ứng dụng và thuần túy cũng như việc con người thao túng con người. Buber nói: “Lời đầu tiên Tôi-Bạn không thể được nói ra nếu không phải là từ toàn bộ con người, thay vào đó từ tôi-nó không bao giờ có thể được nói với toàn thể”.

Tư tưởng này của Buber phần nào giống với tư tưởng của Gabirel Marcel về phác đồ nhị nguyên: cái là và cái có, hiện hữu và sở hữu (Être et avoir) – theo đó cái là diễn đạt nội tại chủ quan, cái có diễn đạt cái ngoại tại khách quan. Dưới cái nhìn của Buber, Cái tôi của Tôi-Bạn là nhân vị, trong khi Cái Tôi của Tôi-Nó là cá nhân. Bản ngã con người (nhân vị) tăng trưởng đúng nghĩa khi được cấu thành chỉ bằng cách tương quan với những người khác, “Tôi chỉ thành Tôi khi ở trong Bạn”. Khẳng định thực thể người được cấu thành bởi mối liên hệ hay đối thoại, đồng thời nói rằng chiều kích Tôi-Nó là chiều kích bề ngoài mang tính chiếm hữu, có, còn chiều kích Tôi-Bạn ngược lại, diễn tả chiều kích sâu sắc, thân mật của đối thoại và của hiện hữu: Tôi-Bạn tương ứng với hiện hữu (être), Tôi-Nó tương xứng với sở hữu (avoir), tương quan vô nhân vị, công cụ và bề ngoài. Tôi-Nó diễn đạt sự độc thoại, Tôi-Bạn chính là đối thoại. Cuộc đối thoại này tìm thấy sự biểu lộ trọn vẹn trong mối quan hệ được thiết lập giữa Cái Tôi và chính Thiên Chúa (Bạn Vĩnh Cửu). Trong mối tương quan này, không thể thu gọn Ngài thành một đối tượng sở hữu hay thuần túy tri thức. Thiên Chúa Thật hằng sống trong Kinh Thánh là một Người Bạn mà chúng ta nói với, chứ không phải là Ngài mà chúng ta nói đến. Thiên Chúa không là đối tượng của khoa học, mà là của cuộc gặp gỡ dấn thân. Hơn nữa, sự hiện diện của thần linh tham dự vào mọi cuộc gặp gỡ đích thực giữa con người và ở trong những người thực hiện cuộc đối thoại đích thực.

Đối thoại với người khác có nghĩa là đối mặt với thực tế của anh ta và chịu trách nhiệm về nó trong cuộc sống thực. Buber viết: “Đối thoại đích thực và do đó mọi sự hoàn thành thực sự của mối quan hệ giữa con người với nhau có nghĩa là chấp nhận sự khác biệt. [...] Nhân loại và con người trở thành những cuộc gặp gỡ đích thực…, khác biệt để làm nảy sinh và phát triển một mối quan hệ xác định với cùng một chân lý được cung cấp để chứng thực lẫn nhau trong những cuộc gặp gỡ đích thực trong bản thể cá nhân của họ”[1]. Bạn và tôi là hai sinh vật có chủ quyền, một người không tìm cách điều kiện người kia hoặc sử dụng nó.

Theo Buber, con người có thể sống mà không cần đối thoại, nhưng ai chưa từng gặp Bạn thì không hoàn toàn là một con người. Tuy nhiên, những người bước vào vũ trụ đối thoại phải chịu rủi ro đáng kể vì mối quan hệ Tôi-Bạn đòi hỏi sự cởi mở hoàn toàn của bản ngã, do đó, họ cũng có nguy cơ bị từ chối và bị từ chối hoàn toàn.

Thực tại chủ quan của Tôi-Bạn bắt nguồn từ cuộc đối thoại, trong khi mối quan hệ công cụ Tôi-Nó được hiện thực hóa trong độc thoại, biến thế giới và bản thân con người thành một đối tượng. Ở cấp độ của độc thoại, cấp độ khác được tái tạo - nó được nhận thức và sử dụng - không giống như cấp độ đối thoại, nơi nó được bắt gặp, nhận ra và được đặt tên như một sinh thể kỳ dị. Những niềm tin này đối lập nhiều với chủ nghĩa cá nhân, nơi mà niềm tin khác chỉ được nhìn nhận trong mối quan hệ với bản thân, cũng như quan điểm của chủ nghĩa tập thể, nơi cá nhân được che giấu vì lợi ích của xã hội.

 “Mục đích của mối quan hệ chính là bản chất của nó, đó là sự tiếp xúc với Bạn; bởi vì qua sự tiếp xúc, mỗi Bạn nắm bắt được hơi thở của Bạn, nghĩa là, sự sống vĩnh cửu. Bất cứ ai trong mối quan hệ tham gia vào một thực tại, tức là vào một thực thể, không hoàn toàn ở trong anh ta cũng không hoàn toàn bên ngoài anh ta. Tất cả thực tại là một hành động mà tôi tham gia mà không thể thích ứng với nó. Ở đâu không có sự tham gia thì thậm chí không có thực tại. Ở đâu có ích kỷ ở đó không có thực tại. Tham gia càng hoàn thiện thì càng có liên hệ với Bạn. Chính sự tham gia vào thực tế làm cho tôi có thật; và càng thực thì càng hoàn thiện, tham gia ”[2](Tôi và Bạn). Tham dự vào sự hiện hữu của người khác chính là đi vào cuộc đối thoại hiện thực nhất.

Như vậy, đối thoại là cuộc gặp gỡ giữa các nhân vị, hay dẫn đến sự hiệp thông liên nhân vị với tất cả sự cởi mở, trân trọng và phong phú hóa cho nhau. Để đi tới tha nhân, để lấp đầy khoảng trống và hố cách biệt sâu thẳm, đối thoại cần thái độ cởi mở, can đảm vượt thắng cảm xúc, thiên kiến, thay vào đó là thái độ kiên nhẫn lắng nghe, sáng suốt lĩnh hội quan điểm của người khác và bình thản đón nhận hay đặt vấn đề. Chính vì vậy, trong đối thoại cần phải quan tâm đến mỗi con người cụ thể, với những nét riêng biệt. Qua đối thoại, mỗi cá nhân được nhìn nhận như những nhân vị có quyền lợi, tự do, cá tính về sắc thái riêng. Đối thoại đòi hỏi phải tôn trọng sự khác biệt và chối từ tham vọng chinh phục người khác. Người khác tự bản chất không những không thể đồng hóa với ta, mà còn thực sự khác ta rõ rệt. Nhưng chính từ sự khác biệt này ta tìm thấy căn tính và đặc thù của họ, làm cho họ là họ, chứ không phải là ta hay một ai khác. Không được áp đặt khuôn mẫu nào đó để quy chiếu và bắt đối phương hướng về. Tránh dùng ý chí chủ quan để đánh giá, định lượng và phân loại đối tượng theo tiêu chuẩn riêng, dẫn đến loại trừ tha nhân.

Một cuộc đối thoại đích thực đòi hỏi phải đảm nhận đồng thời hai yếu tố có vẻ trái ngược nhưng bổ túc cho nhau: Giữ căn tính của mình và tôn trọng quan điểm của người khác; trân trọng những nét riêng biệt của họ, mà vẫn không đánh mất căn tính của mình. Phải có xác tín, có lập trường và luôn giữ vững bản sắc của mình. Điều quan yếu là cần thể hiện sự thiện chí cùng nhau sửa đổi và hoàn thiện.

Đối thoại là thái độ dấn thân kiếm tìm chân lý, xây dựng niềm cảm thông giữa người với người; khai mở, soi sáng, hướng dẫn, giúp đỡ... làm triển nở chân lý tiềm ẩn nơi mỗi người và hiểu nhau hơn qua đối thoại... sau một quá trình đối thoại chân thành (chia sẻ thông tin), rất có thể sẽ vượt qua một số bất đồng để đi đến một đồng thuận nào đó. Thái độ đối thoại đòi hỏi phải chấp nhận và trân trọng tính đa diện, cũng như sự khác biệt căn bản giữa các bên để cố gắng bắc nhịp cầu cảm thông và tiến tới một giải pháp hợp lí cho tất cả.

Buber trân trọng và thúc đẩy đối thoại không phải là một nỗ lực có chủ đích nào đó để đi đến kết luận hoặc bày tỏ quan điểm đơn thuần, mà là điều kiện tiên quyết của mối quan hệ đích thực giữa con người và con người, giữa con người với Chúa. Tư tưởng của Buber tập trung vào "đối thoại thực sự", được đặc trưng bởi sự cởi mở, trung thực và cam kết lẫn nhau[3].

[1] Lược dịch từ https://www.filosofico.net/martinbuber.htm
[2] Lược dịch từ https://www.filosofico.net/martinbuber.htm
[3] Theo Wikipedia  site:vi.wikiarabi.org/dialogue

Tác giả: Lm. Giuse Vũ Văn Hiếu

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây